Có một trường Đại học như thế

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô, ở thời khắc lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Hà Nội đã chứng kiến sự ra đời của một ngôi trường đặc biệt, có một không hai trong nền giáo dục của nước Việt Nam mới…
Trường Đại học Nhân dân Việt Nam

Trường Đại học Nhân dân Việt Nam

Ngôi trường đầu tiên

Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch về lại Thủ đô. Cả nước đang tập trung mọi nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh công tác giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, đẩy lùi mọi tệ nạn mà chế độ cũ để lại. Dù trăm công nghìn việc đặt nặng lên vai các nhà lãnh đạo, nhưng một trong những vấn đề quan trọng mà Đảng và Bác Hồ hết sức quan tâm lúc bấy giờ là trọng dụng đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, công chức trong vùng tạm chiếm, trong đó có hàng ngàn nam nữ thanh niên đã học xong hoặc đang học dang dở tú tài, đại học.

Đây là một lực lượng trẻ, đầy nhiệt huyết, có thể phục vụ tốt cho cách mạng. Nếu chúng ta không có kế hoạch trau dồi, bồi dưỡng, giúp đỡ họ hiểu rõ cách mạng và tình hình mới của đất nước thì sẽ là một tổn thất lớn. Điều đó không những bỏ rơi một lực lượng hùng hậu rất cần cho nhà nước mới, mà ngược lại họ có thể bị bọn phản động lôi kéo, lợi dụng chống phá cách mạng. Do đó, Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch nhanh chóng khích lệ tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân nói chung, đặc biệt các tầng lớp thanh niên trí thức, học sinh, sinh viên, viên chức.

Trong lúc đó, các trường cũ đang bị xáo trộn, tình hình chưa ổn định để đi vào giảng dạy, còn các trường của chế độ mới chưa kịp ra đời. Trước tình hình đó, chỉ 3 tháng sau ngày tiếp quản Thủ đô, một giải pháp cực kỳ quan trọng, được Đảng, Chính phủ và Bác Hồ lựa chọn lúc bấy giờ là cấp tốc mở trường Đại học Nhân dân Việt Nam, do Giáo sư Hoàng Minh Giám làm Hiệu trưởng và đồng chí Phạm Văn Đồng làm Hiệu trưởng danh dự. Được khai giảng niên khóa đầu tiên 1955 - 1956, trụ sở trường đặt tại khu Đấu xảo (nay là Cung văn hóa Hữu nghị).

Chương trình giảng dạy không đi vào các ngành khoa học, kỹ thuật, xã hội nhân văn… mà chủ yếu trang bị một số kiến thức cơ bản về cách mạng, dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội khoa học và nhiệm vụ của thanh niên, trí thức, văn nghệ sỹ trước tình hình mới. Chương trình giảng dạy chủ yếu là Khoa học xã hội và chính trị, với phương châm giáo dục lý luận liên hệ mật thiết với thực tiễn cuộc sống theo mô hình do Bác Hồ xây dựng nhằm đào tạo một lớp thanh niên trí thức mới. Từ ngôi trường này, sau đó những thanh niên ưu tú của toàn miền Bắc đã tình nguyện gia nhập Đoàn Thanh niên xung phong Trung ương tỏa đi khắp mọi miền đất nước với khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”.

Bác Hồ đến dự Lễ khai giảng trường Đại học Nhân dân Việt Nam ngày 19-1-1955

Bác Hồ đến dự Lễ khai giảng trường Đại học Nhân dân Việt Nam ngày 19-1-1955

Bài học cuối cùng

Nhà trường quản lý trên 15.000 sinh viên gồm các tỉnh và Hà Nội về học, trong đó có một số không nhiều ở vùng kháng chiến. Giảng viên nhà trường phần lớn là các vị lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết, nhiều giáo sư nổi tiếng cũng đến giảng dạy hoặc báo cáo chuyên đề.

Lễ khai giảng được tổ chức vào ngày 19-1-1955, nhà trường vô cùng phấn khởi và tự hào được Bác Hồ đến thăm và nói chuyện. Toàn thể giảng viên và sinh viên vẫn mãi mãi khắc sâu lời căn dặn của Bác Hồ: “Những điều nên làm: Phải vạch rõ ranh giới, vạch rõ phải - trái. Vạch rõ ranh giới là phải nhận rõ ai là bạn, ai là thù? Đối với người, ai làm gì lợi cho dân, cho nước đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân, cho Tổ quốc tức là kẻ thù…

Điều gì phải, thì cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều rất nhỏ. Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn…”. Trường Đại học Nhân dân Việt Nam ra đời cách nay đã trên 66 năm, nhưng mãi mãi là ký ức không bao giờ phai mờ đối với những cựu sinh viên năm xưa. Nhắc đến lời dạy của Bác, nhà giáo Trần Hữu Dụng, cựu sinh viên của trường, bồi hồi xúc động kể: “Sau khi nói xong bài phát biểu, Bác còn ân cần nhắc nhở nam nữ sinh viên phải cư xử với nhau đúng mực, coi nhau như anh em một nhà, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”.

GS Hoàng Minh Giám

GS Hoàng Minh Giám

Còn nhà sử học Ngô Đăng Lợi nhớ lại: “Hồi ấy, tôi đang là cán bộ xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng thì có giấy gọi nhập học. Điều vô cùng bất ngờ là tại trường tôi được học tập dưới sự hướng dẫn của nhiều thầy giáo danh tiếng. Trong khi đó tôi chỉ là một cán bộ trẻ của một vùng quê nghèo, không bao giờ nghĩ là mình lại được làm học trò của những người thầy nổi tiếng như Phạm Văn Đồng, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp. Hay như các thầy Nguyễn Khánh Toàn dạy môn Triết học duy vật biện chứng, thầy Đoàn Trọng Truyến giảng về Kinh tế chính trị, thầy Tố Hữu dạy Duy vật lịch sử…

Riêng với nhà báo Hàm Châu (Báo Nhân dân), mỗi lần hồi tưởng về trường Đại học Nhân dân Việt Nam, ông lại nhắc đến bài thơ “Nghe tiếng giã gạo” của Bác Hồ:

Gạo đem vào giã bao đau đớn,

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông,

Sống ở trên đời, người cùng vậy,

Gian nan rèn luyện mới thành công.

Ông còn cho biết thêm, mỗi bài giảng của các thầy, mỗi buổi sinh hoạt tổ rút kinh nghiệm chung hay những buổi kiểm điểm, phê bình nhau gay gắt, đó là kỷ niệm của thời sinh viên ở trường Đại học Nhân dân Việt Nam. Trường đã tôi luyện cho họ về sau trở thành những trí thức cách mạng, công tác khắp mọi miền đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Họ sẵn sàng nếm mật nằm gai để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hữu ích cho cuộc đời mà không màng danh lợi.

Thành quả vững chắc

Sau khi kết thúc khóa học (hoặc đang học, nhưng có trình độ), một số sinh viên được chọn đi học tiếp ở nước ngoài, một số được phân về công tác ở các cơ quan. Nhiều người trong số đó, sau này đã trở thành cán bộ cốt cán, hoặc cán bộ lãnh đạo. Không lâu sau đó, các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành, các trường phổ thông (cấp I, II, III) lần lượt được thành lập và trường Đại học Nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xong sứ mệnh lịch sử của mình.

Cũng cần nói thêm, trong số những người theo học có một số là trí thức, văn nghệ sỹ, công chức chế độ cũ có trình độ chuyên môn cao, do nhiều hoàn cảnh khác nhau nên họ không thể trực tiếp tham gia kháng chiến, nhưng trong lòng họ luôn luôn hướng về cách mạng hoặc bằng mọi cách ủng hộ kháng chiến với khả năng của mình. Chẳng hạn lúc quân Pháp rút khỏi miền Bắc, họ đã tích cực chống lại việc cưỡng ép di cư, kiên quyết ở lại miền Bắc với cách mạng.

Nhiều người trong số họ còn đứng lên đấu tranh không cho địch phá hủy hoặc di chuyển máy móc, thiết bị, vật tư, tài liệu vào Nam. Để bồi dưỡng cho tầng lớp trí thức này, Đảng và Chính phủ giao cho trường Đại học Nhân dân Việt Nam một nhiệm vụ mới dù các khóa học đã kết thúc. Đó là mở thêm 3 lớp nghiên cứu chính trị ngắn hạn tại khu Thái Hà trong 2 năm 1955 - 1957. Mỗi lớp chỉ kéo dài khoảng 4 tháng, chủ yếu giúp họ nghiên cứu đường lối chính sách của Đảng, lịch sử cách mạng Việt Nam và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, lớp nào khai giảng cũng đều được Bác Hồ đến thăm và nói chuyện ân cần, trọng thị.

Riêng với những trí thức Nho học, khi nói chuyện Bác thường dẫn những câu kinh điển được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh của đất nước Việt Nam mới. Ví dụ như câu: “Đại học chi đạo: tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (trích sách Đại Học, một trong Tứ thư kinh điển của Nho gia - PV). Bác cắt nghĩa: “Minh đức là rèn luyện lòng trong sáng, ngay thẳng, không tà tâm. Thân dân là gần dân, tôn trọng dân, phục vụ tốt cho dân. Muốn vậy phải nắm vững kiến thức”. Với những lời giản dị, Bác đã khiến các trí thức hiểu rõ hơn về cách mạng, về Đảng. Khi về lại cơ quan công tác, họ đã nhanh chóng hòa nhập vào guồng máy, xóa đi sự phân biệt trong cán bộ cũ và mới.

Trường Đại học Nhân dân Việt Nam là một hình thức đào tạo đặc biệt, một sáng kiến của Đảng và Bác Hồ, tuy tồn tại chỉ một thời gian ngắn, nhưng đã mang lại kết quả tốt đẹp. Nhà nước ta đã tạo ra được một đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, công chức lành nghề, có chuyên môn cao, lập trường chính trị vững chắc sau ngày Thủ đô được giải phóng.

Tin đọc nhiều