Chiến hạm Mỹ tiến vào biển Đen giữa lúc Ukraine tấn đông ly khai thân Nga

ANTD.VN - Chiến hạm Mỹ tiến vào biển Đen làm nhiệm vụ tuần tra trong bối cảnh căng thẳng Nga - Ukraine ở mức cao, sau khi Kiev tiến hành các chiến dịch quân sự nhắm vào lực lượng ly khai thân Nga tại miền Đông.

Chiến hạm Mỹ tiến vào biển Đen làm dấy lên nhiều lo ngại. Được biết khu trục hạm USS Arleigh Burke mang theo khoảng 90 tên lửa đã đi vào vùng biển này giữa lúc Ukraine đang tiến hành các chiến dịch quân sự tại miền Đông.

"Tàu khu trục USS Arleigh Burke tiến vào Biển Đen để làm nhiệm vụ tuần tra thông thường hôm 25/11/2021. Chiến hạm sẽ hoạt động bên cạnh lực lượng NATO và các đối tác khu vực nhằm bảo đảm an ninh, ổn định với tuyến hàng hải quốc tế quan trọng này", Hạm đội 6 hải quân Mỹ ra thông cáo cho biết.

Hải quân Mỹ cho biết, các nước thành viên NATO và đối tác thường xuyên hiện diện trong khu vực nhằm bảo đảm môi trường hàng hải an toàn và ổn định, cũng như cải thiện năng lực tác chiến và khả năng phối hợp hiệp đồng.
USS Arleigh Burke tiến vào Biển Đen sau khi soái hạm USS Mount Whitney và khu trục hạm USS Porter hoàn thành nhiệm vụ và rời khỏi khu vực này.

Trung tâm Chỉ huy Quốc phòng Quốc gia Nga sau đó thông báo "các lực lượng thuộc Hạm đội Biển Đen đã bắt đầu giám sát chiến hạm USS Arleigh Burke", trong khi Bộ Quốc phòng Nga cáo buộc hoạt động của tàu chiến Mỹ đang trở thành yếu tố gây bất ổn trong khu vực.

Mỹ định kỳ điều chiến hạm tới Biển Đen để thể hiện sự ủng hộ đối với Ukraine, hoạt động thường xuyên bị Nga phản đối.

Quan hệ Nga - Ukraine lao dốc sau khi Moskva sáp nhập bán đảo Crimea năm 2014 và phong trào đòi ly khai bùng lên ở miền đông Crimea.

Ukraine gần đây cáo buộc Nga tập trung lực lượng sát biên giới nước này, trong khi Belarus, đồng minh thân cận của Moskva, tìm cách đẩy người di cư qua biên giới.

Được biết USS Arleigh Burke là chiếc đầu tiên thuộc lớp tàu khu trục cùng tên, được hạ thủy tháng 9/1989 và biên chế trong hải quân Mỹ tháng 7/1991.
Lớp Arleigh Burke nằm trong số các khu trục hạm lớn nhất từng được Mỹ chế tạo, cho tới khi siêu tàu khu trục tàng hình lớp Zumwalt ra đời. Chúng được thiết kế để trở thành chiến hạm đa năng, đáp ứng vai trò tác chiến phòng không (AAW), chống ngầm (ASW) và chống tàu mặt nước (ASuW).
Việc trang bị cụm radar mảng pha quét điện tử AN/SPY-1, tên lửa đánh chặn SM-2/3 và hệ thống phòng thủ Aegis biến tàu khu trục lớp Arleigh Burke thành tổ hợp chống tên lửa đạn đạo và diệt vệ tinh hiệu quả nhất trong biên chế hải quân Mỹ.
Lớp Arleigh Burke được chia thành nhiều phiên bản (Flight). 21 tàu đầu tiên từ DDG-51 tới DDG-71 được xếp vào Flight I, 7 chiếc tiếp theo (DDG-72 tới DDG-78) thuộc Flight II.
Bản nâng cấp IIA được chế tạo từ cuối năm 1997, bao gồm 43 chiếc đã được biên chế (DDG-79 tới DDG-112) và 11 tàu đang trong quá trình đóng mới và hoàn thiện (DDG-113 đến DDG-123). Flight III gồm ba tàu (DDG-124 đến DDG-126) vừa được hải quân Mỹ đặt mua, nhưng chưa bắt đầu quá trình đóng mới.
Lượng giãn nước toàn tải của Flight I là 8.315 tấn, Flight II là 8.400 tấn, Flight IIA tăng tới 9.200 tấn và Flight III là 9.800 tấn. Flight I và II có chung chiều dài 154 m, trong khi Flight IIA kéo dài lên mức 155 m. Chiều rộng tất cả các tàu đều là 20 m.
Mỗi tàu được trang bị 90-96 ống phóng thẳng đứng (VLS) chia làm hai cụm trước và sau thượng tầng, có khả năng sử dụng tên lửa hành trình BGM-109 Tomahawk, tên lửa phòng không RIM-156 SM-2 và RIM-161 SM-3, cùng tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC.
Việc bố trí phân tán vũ khí đảm bảo tàu khu trục có thể duy trì hỏa lực khi một hệ thống bị trục trặc hoặc một khu vực trên tàu bị tấn công.
Ngoài khả năng phòng không và tấn công mặt đất, những chiếc Arleigh Burke còn đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác, đặc biệt là tác chiến chống ngầm.

Chúng được trang bị hệ thống định vị thủy âm (sonar) AN/SQS-53C gắn trên thân và sonar kéo AN/SQR-19 sau tàu để phát hiện tàu ngầm từ phía đuôi. Mỗi tàu có hai cụm ống phóng ngư lôi chống ngầm Mark 32 với 6 quả đạn.

Để cận chiến, lớp Arleigh Burke được trang bị một hải pháo Mark 45 cỡ nòng 127 mm phía mũi với tầm bắn 21 km và cơ số đạn 600 viên.
Các tàu còn được trang bị vũ khí hạng nhẹ để đối phó các mối đe dọa nhỏ, như hệ thống phòng thủ tầm cực gần Phalanx 20 mm và pháo tự động M242 Bushmaster 25 mm.

Chỉ có 28 tàu lớp Arleigh Burke được trang bị tên lửa chống hạm Harpoon, 34 chiếc còn lại đã loại bỏ hoàn toàn loại vũ khí này.

Những chiếc mang tên lửa Harpoon cũng dần chuyển sang vai trò phòng thủ tên lửa đạn đạo với sự xuất hiện của tên lửa SM-3 Block 1B.

Khả năng chở trực thăng không xuất hiện ở Flight I và II. Phải tới Flight IIA, các tàu thuộc lớp này mới có thể mang theo hai trực thăng MH-60R Seahawk.

Cung cấp lực đẩy cho tàu là 4 động cơ turbine khí General Electric LM2500 với tổng công suất 105.000 mã lực, giúp tàu đạt tốc độ tối đa 56 km/h. Tầm hoạt động của lớp Arleigh Burke đạt mức 8.100 km ở tốc độ hành trình 37 km/h.
Hệ thống chiến đấu Aegis được nâng cấp với khả năng phòng thủ tên lửa. Bộ vi xử lý của radar AN/SPY-1D được cải tiến để nhận biết mục tiêu tốt hơn ở các khu vực lộn xộn ven biển.
Thủy thủ đoàn của lớp chiến hạm này khoảng 300 người, họ được cung cấp bữa ăn giàu dinh dưỡng, đảm bảo sức khỏe cho những chuyến làm nhiệm vụ dài ngày trên biển.