Số hóa điện ảnh - lan tỏa tinh thần “Người Việt yêu phim Việt”

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Sự xuất hiện của Covid-19 đã gây nhiều xáo trộn đặc biệt nghiêm trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội, tuy nhiên đại dịch cũng đã thúc đẩy quá trình công nghệ hóa một cách nhanh chóng và sâu sắc trong mọi lĩnh vực của cuộc sống mà điện ảnh là một trong các ngành đầu tiên cần phải “làm mới” mình.

Hai năm đại dịch, khi thực hiện các giải pháp giãn cách xã hội, hàng loạt các rạp chiếu phim phải đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng khiến kế hoạch ra mắt công chúng của nhiều siêu phẩm điện ảnh bị đảo lộn. Khán giả thay vì rời khỏi nhà và thưởng thức điện ảnh trên các hàng ghế trước màn ảnh rộng đã buộc phải từ bỏ thói quen này để chọn hình thức xem phim tại nhà. Chính sự thay đổi đột ngột xu hướng hưởng thụ điện ảnh ấy khiến nhiều nhà sản xuất không còn cách nào khác là phải tìm tới các nền tảng phát hành trực tuyến như một cứu cánh cho đầu ra của các bộ phim, trong đó bao gồm cả những phim “bom tấn” - hình thức mà trước đây trong điều kiện bình thường họ không mấy mặn mà.

Cùng với sự trợ giúp nổi bật của công nghệ 4.0 trên các nền tảng trực tuyến, các tác phẩm điện ảnh được phủ sóng rộng rãi hơn

Cùng với sự trợ giúp nổi bật của công nghệ 4.0 trên các nền tảng trực tuyến, các tác phẩm điện ảnh được phủ sóng rộng rãi hơn

Đưa cả rạp chiếu phim về nhà

Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà - Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), sau hơn 1 thế kỷ hình thành và phát triển (từ năm 1895), nghệ thuật điện ảnh dường như đã mặc định nếu muốn xem phim nhựa chắc chắn chỉ có thể xem tại rạp bởi các thiết bị xem phim nhựa tại nhà quá đắt đỏ và phức tạp. Hơn nữa, niềm đam mê xem phim tại rạp, ngoài sự kết nối tình thân (bởi nhiều niềm vui có được khi cùng nhau tới rạp để thưởng thức điện ảnh với hiệu quả hình ảnh và âm thanh khi mà các thiết bị xem tại nhà không thể đáp ứng) còn là thói quen cả trăm năm.

Dù ưu việt vậy, nhưng những thế hệ khán giả “sinh sau đẻ muộn” rất khó để tìm xem được những bộ phim từng nổi tiếng một thời. Bởi khi hết đời sống ở rạp, chúng sẽ trở về kho lưu trữ và dường như chỉ còn dành cho công tác nghiên cứu, đào tạo, hay đi vào những trang sách về lịch sử điện ảnh. Vậy là một tác phẩm điện ảnh vô cùng sống động, chứa đựng nhiều dữ liệu hình ảnh về văn hóa, lịch sử của một đất nước sẽ đi vào một đời sống “tĩnh”, rời xa đời sống “động” khi không còn tương tác trực tiếp với khán giả, thiếu đi sự quan tâm của nhiều thế hệ người xem khi tuổi đời của họ thua xa tuổi đời của bộ phim. Đây là sự thiệt thòi không nhỏ đối với chính bộ phim và lớp khán giả thế hệ mới. Nhưng đời sống và công nghệ không bao giờ dừng lại, con người mãi tiến về phía trước, luôn tự phát triển và hoàn thiện. Và việc xem phim cũng đã có nhiều đòi hỏi đa dạng, đáp ứng nhu cầu cuộc sống luôn đổi mới.

Cùng với sự trợ giúp nổi bật của công nghệ 4.0 trên các nền tảng trực tuyến, các tác phẩm điện ảnh được phủ sóng rộng rãi hơn, không phụ thuộc vào thời gian và khoảng cách, đồng thời cũng thích ứng các quy định về giãn cách xã hội. Khán giả có thể lựa chọn linh hoạt về khung giờ, địa điểm với hàng trăm, hàng nghìn sự lựa chọn phong phú trong các kho phim có sẵn. Chỉ trong một cú nhấp chuột đã có thể đưa cả rạp chiếu phim về nhà hay tới bất cứ đâu với chi phí thấp hơn nhiều so với việc ra rạp. Không nằm ngoài xu hướng phát triển của công nghiệp điện ảnh toàn cầu, điện ảnh Việt Nam tích cực xây dựng, phát triển các nền tảng chiếu phim trên không gian mạng. Chủ động xây dựng, phát triển cộng đồng người xem trên Internet kết hợp với các nền tảng phát triển điện ảnh, gắn với phát triển công nghiệp văn hoá, trong đó có công nghiệp điện ảnh.

Cảnh trong phim “Đến hẹn lại lên”

Cảnh trong phim “Đến hẹn lại lên”

Bà Nguyễn Thị Thu Hà chia sẻ thêm, hiện tại ngành điện ảnh đang có những quyết tâm lớn trong việc chuyển đổi số toàn bộ kho phim Việt, đặc biệt đối với số lượng rất lớn phim Việt Nam, những tư liệu hình ảnh thời kỳ điện ảnh cách mạng từ trong bưng biền Nam bộ (1947), tới Đồi Cọ, Thái Nguyên (1953). Chúng mang trong mình những giá trị như di sản tư liệu, hình ảnh có tính độc bản, duy nhất khi truyền hình và các phương tiện truyền thông hiện đại khác còn chưa thể có tại Việt Nam. Năm 2013 có thể coi như dấu mốc khi hoạt động sản xuất phim Việt Nam hầu như đã hoàn toàn chuyển từ công nghệ phim nhựa sang công nghệ phim kỹ thuật số.

Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 18 (2013), hai bộ phim truyện “Những người viết huyền thoại” (Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất) và “Scandal - Bí mật thảm đỏ” (Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân và Công ty Giải trí Ngôi sao sản xuất) cùng được vinh danh khi đạt Giải thưởng Bông sen Vàng dành cho Phim truyện xuất sắc là một minh chứng rõ nét về sự chuyển đổi này. Thêm nữa, sự ra đời và phổ cập tới người dùng các thiết bị thông minh, máy tính, điện thoại thông minh, tivi thông minh… giúp người xem tiếp cận nhanh với điện ảnh, rút ngắn khoảng cách tiếp cận những tác phẩm điện ảnh từ trong quá khứ tới hiện tại. Chính vì vậy, sau 10 năm không còn sản xuất phim nhựa, việc chuyển đổi số trong cách tiếp cận người xem đã trở thành nhu cầu cấp thiết đối với ngành điện ảnh Việt Nam.

Có một thực tế là, hàng ngày người dân vẫn xem nhiều phim nước ngoài trên các nền tảng trực tuyến của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, trong khi đó phim Việt Nam lại thiếu nền tảng số của quốc gia để phổ biến. Hàng trăm, hàng ngàn bộ phim Việt Nam có chất lượng, những tác phẩm điện ảnh có giá trị sống cùng năm tháng nhưng do nhiều nguyên nhân vẫn chưa được đưa đến với rộng rãi nhiều thế hệ công chúng trên không gian mạng. Chính vì thế, việc xây dựng một nền tảng số chính thức của Nhà nước để phát hành và phổ biến phim trực tuyến sẽ góp phần giáo dục truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng, giới thiệu văn hóa đất nước, con người Việt Nam thông qua các tác phẩm điện ảnh có giá trị về nội dung và tư tưởng.

Lựa chọn để số hóa

Khi nói đến điện ảnh, chúng ta thường nghĩ ngay đến những bộ phim vừa là tác phẩm nghệ thuật điện ảnh, vừa là những sản phẩm nghe nhìn tích hợp trong đó những thành tố nghệ thuật sáng tạo. Đây chính là đối tượng đầu tiên của việc số hóa, bao gồm toàn bộ các tác phẩm điện ảnh nói chung của các thể loại: phim tài liệu, phim khoa học, phim truyện điện ảnh, phim ngắn, phim hoạt hình… Trong đó, phim tài liệu được xem là tác phẩm, sản phẩm xây dựng theo tinh thần người thật việc thật, mang giá trị tư liệu lịch sử cao.

Theo PGS.TS Đỗ Lệnh Hùng Tú - Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam, trên thực tế có rất nhiều hình ảnh được ghi lại, nhưng chỉ có một phần trong số đó được sử dụng để dựng thành phim. Chính số lượng tư liệu “thô” này là một kho tàng vô giá cho việc tham khảo về sau. Riêng trong quá trình sản xuất phim, những tư liệu hình ảnh động liên quan đến việc thực hiện bộ phim vẫn được xem là đối tượng cần số hóa, nhưng để ở đề mục riêng như là một ngân hàng ảnh. Các hãng phim, các hãng thông tấn trên thế giới đều có ngân hàng tư liệu rất lớn. Họ luôn đánh dấu cẩn thận để có thể sử dụng lúc cần, kỹ thuật số hóa giúp giải quyết vấn đề này một cách tiện dụng và hữu ích.

Ngoài tác phẩm điện ảnh và các tư liệu hình ảnh - tức 2 đối tượng vừa nêu trên - thì còn có các tài liệu (thường là bằng văn bản, hồ sơ) liên quan đến chúng, bao gồm các thông tin như lý lịch phim, thời hạn phát hành, phổ biến phim, tình trạng kỹ thuật, bản quyền sử dụng, nơi lưu trữ, các ràng buộc về pháp luật có liên quan đến việc hợp tác, sản xuất, mua bán, trao đổi, quyền sở hữu, quyền tác giả… cũng cần đồng bộ số hóa. Ở một số quốc gia tiên tiến, khái niệm hình ảnh động của họ rất rộng nên họ còn số hóa cả các chương trình truyền hình.

Chúng được lưu giữ trong một thời hạn ít nhất là 6 tháng trước khi chọn lọc ra những gì cần được số hóa. Đây là số hóa theo tiêu chuẩn lý tưởng, cái mà chỉ có các quốc gia phát triển mới có thể đảm nhiệm từng bước. Gọi là từng bước vì công việc khó khăn và lâu dài, một phần do phim và tư liệu hình ảnh động cũ còn rất nhiều, trong khi phim mới vẫn được sản xuất đều đặn. Phần nữa là các phim mới hiện nay có rất nhiều chuẩn kỹ thuật khác nhau nên việc số hóa chúng là điều không đơn giản, nói cách khác đây thật sự là một công việc không có điểm dừng.

Từ nhiều năm nay, Viện phim Việt Nam đã và đang cố gắng hệ thống hóa các thông tin về các tác phẩm điện ảnh và tư liệu hình ảnh động từ trước đến nay, đa phần chúng đều đang được lưu trữ bằng bản kỹ thuật gốc. Chúng được in chuyển thành bản sao qua băng từ hay số hóa qua đĩa mỗi khi có nhu cầu in trích cho các đơn vị khác. “Điều đáng mừng là ngày càng nhiều người nhận ra sự cần thiết của việc số hóa và đang từng bước thực hiện công việc này” - ông Đỗ Lệnh Hùng Tú nói.

Theo Công ty TNHH hệ thống thông tin FPT, môi trường số Internet cung cấp nhiều dữ liệu giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có thể nắm bắt được dư luận, phản hồi của xã hội về các tác phẩm điện ảnh, các vấn đề văn hóa, xã hội được nêu trong các tác phẩm điện ảnh. Các dữ liệu đó, nếu được thu thập đầy đủ, được phân tích tốt sẽ giúp các cơ quan quản lý đưa ra các chính sách phù hợp, góp phần định hướng nền điện ảnh, xây dựng một xã hội số tốt đẹp. Vì thế, có thể cân nhắc các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực điện ảnh trên không gian mạng như: Xây dựng kho dữ liệu số về các tác phẩm điện ảnh với công nghệ dữ liệu lớn (Big data) cho công tác lưu chiểu, lưu trữ; Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) phân tích nội dung, hỗ trợ phân loại, kiểm duyệt nội dung; Thu thập và phân tích dữ liệu lớn xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghiệp điện ảnh.

Luật Điện ảnh 2022 sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2023 đã kế thừa có chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung 32 điều và quy định mới 18 điều so với Luật Điện ảnh năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2009. Luật có những điểm mới cơ bản, góp phần khẳng định vai trò của điện ảnh vừa là ngành nghệ thuật, vừa là ngành kinh tế; công nghiệp điện ảnh trở thành một trong những ngành mũi nhọn của công nghiệp văn hóa Việt Nam.

Chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh, công nghiệp điện ảnh quy định tại khoản 2, Điều 5 Luật Điện ảnh 2022 đã thể hiện rõ hơn cơ chế của Nhà nước huy động mọi nguồn lực đầu tư, phát triển điện ảnh, công nghiệp điện ảnh để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh gắn với phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Điện ảnh phấn đấu trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế.

Về phát hành phim, tại Chương III đã có những quy định nhằm tạo thuận lợi cho việc đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực phát hành phim. Về phổ biến phim, tại Chương IV có riêng Điều 21 quy định về phổ biến phim trên không gian mạng. Những điểm mới trong Luật Điện ảnh 2022 cho thấy, sự phát triển nhanh chóng của điện ảnh trong sự phát triển của kinh tế, xã hội; đặc biệt là sự bùng nổ của cách mạng công nghệ lần thứ tư đã tác động mạnh mẽ tới đời sống của mỗi con người, mỗi quốc gia trên con đường phát triển, của truyền thống và công nghệ, của lịch sử và tương lai, của bản sắc văn hóa và đa dạng văn hóa … Những người làm điện ảnh sẽ luôn đứng trước cơ hội làm mới mình, bởi điện ảnh là một ngành nghệ thuật được sinh ra và phát triển cùng các bước tiến của công nghệ.