Riêng chuyện đặt tên thì đừng "sính" ngoại

ANTD.VN - Vợ chồng tôi là người Việt Nam, sinh con tại Việt Nam. Xin luật sư cho biết tôi có được đặt tên con bằng tiếng nước ngoài như Trung Quốc, Hàn Quốc hay tiếng Anh không? Có những hạn chế gì theo quy định của pháp luật khi đặt tên cho con? Phạm Bích Hạnh (Huyện Đông Anh - Hà Nội)

Luật sư Đặng Văn Sơn - Trưởng VPLS Đặng Sơn và cộng sự Địa chỉ: Số 31, ngõ 192, đường Tam Trinh, Yên Sở, Hoàng Mai, Hà Nội

Tên thông thường bao gồm họ, tên chính và tên đệm (nếu có) là để phân biệt người này với người khác hoặc để phân biệt giới tính (như nguyên tắc đặt tên “nam “văn”, nữ “thị” trước đây). Cùng với thời gian, việc đặt tên cho con đã có nhiều thay đổi, thể hiện quan điểm, nhận thức đa dạng của các bậc cha mẹ. Nhiều trẻ đã được đặt tên theo những người nổi tiếng, một số trẻ lại được đặt tên quá dài, tên nước ngoài khiến cán bộ hộ tịch “hoang mang”.

Theo quy định tại Điều 26 - Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền có họ, tên của cá nhân, cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ. 

Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của người đó.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng. Cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật này là cha, mẹ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Cùng với quy định nêu trên, việc đặt tên sẽ bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Theo đó, tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.

Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình. Và việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, thay đổi tên trong trường hợp việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ, tên cũ. 

Mặt khác, Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 đã quy định rõ, một trong những điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam là “phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam”.