Liên Xô sao chép 'rắn lửa' AIM-9 của Mỹ (phần 2): Tên lửa AIM-9 ‘món quà’ định mệnh đầy bất ngờ

ANTD.VN - Năm 1958, một quả tên lửa không đối không AIM-9B bắn ra từ chiếc F-86 đảo Đài Loan đã găm trúng đuôi chiếc MiG-17 Trung Quốc nhưng không nổ. Chính nhờ “chiến lợi phẩm” này đã giúp Liên Xô nắm bí mật và sao chép thành công loại tên lửa tối tân của Mỹ và đinh danh là K-13.
Trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1958, các tiêm kích F-86 Sabre do Mỹ trang bị cho đảo Đài Loan rất có lợi thế khi trang bị tên lửa đối không AIM-9B Sidewinder tối tân, để đối đầu với những chiếc MiG-17 Trung Quốc vốn chỉ được trang bị pháo.
Một sự cố hy hữu với AIM-9B đã giúp Liên Xô nắm trong tay nguyên mẫu tên lửa cực nguy hiểm của Mỹ, từ đó cho ra đời mẫu K-13, loại tên lửa hồng ngoại trang bị tiêu chuẩn cho tiêm kích MiG-21 và các loại chiến đấu cơ khác sau này của Liên Xô.
Diễn biến của sự kiện này được giới phân tích đánh giá là rất li kỳ. Trong cuộc đụng độ trên không ngày 28-9-1958, tiêm kích F-86 Đài Loan khóa mục tiêu vào chiếc MiG-17 do Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc, sau đó phóng một tên lửa AIM-9B.
Quả tên lửa AIM-9B từ tiêm kích F-86 đâm thẳng vào tiêm kích MiG-17 nhưng ngạc nhiên là nó không phát nổ, cũng không làm máy bay mất quyền điều khiển, từ đó cho phép phi công trở về căn cứ an toàn.
Chiếc MiG-17 của Trung Quốc hạ cánh an toàn ở sân bay với quả tên lửa AIM-9B còn nguyên đang găm ở đuôi máy bay.

Các chuyên gia quân sự cho rằng đây là cú thoát chết thần kỳ đối với phi công MiG-17 Trung Quốc, bởi nếu quả AIM-9B phát nổ, chiếc tiêm kích chắc chắn sẽ bị vỡ tan và đâm xuống đất.

Hoặc động năng mạnh từ vụ va chạm có thể khiến cho chiếc MiG-17 mất quyền điều khiển và lao xuống đất.
Kỹ thuật viên quân sự mặt đất Trung Quốc đã tháo quả tên lửa AIM-9B khỏi đuôi tiêm kích MiG-17 thành công, nhưng không quân nước này không biết làm gì với chiến lợi phẩm có một không hai đó.
Nắm được thông tin này, Liên Xô tìm cách thuyết phục Trung Quốc giao lại quả tên lửa AIM-9B quý giá đó.
Sau quá trình đàm phán, quả đạn Sidewinder được chuyển tới Viện Thiết kế Vympel của Liên Xô để nghiên cứu.
"Tên lửa Sidewinder như một trường đại học, cung cấp công nghệ chế tạo cho chúng tôi. Nó cũng giúp chúng tôi nâng cấp tài liệu giảng dạy kỹ thuật và thay đổi phương thức sản xuất tên lửa trong tương lai", ông Gennadiy Sokolovskiy, sau này là Kỹ sư trưởng của Vympel, tuyên bố.
Tên lửa AIM-9B có hàng loạt tính năng quý giá, như thiết kế module cho phép đơn giản hóa sản xuất và vận hành.
Quả đạn AIM-9B Sidewinder có cấu trúc rất đơn giản, trái ngược hoàn toàn với thiết kế phức tạp trên dòng tên lửa K-5 được Liên Xô biên chế từ năm 1957.
Đầu dò hồng ngoại của AIM-9B sử dụng con quay hồi chuyển tự do với kích thước nhỏ hơn nhiều so với sản phẩm tương tự của Liên Xô.
Các chuyên gia vũ khí của LIên Xô cho rằng AIM-9B Sidewinder có hệ thống định hướng và ổn định khi bay vượt trội hơn nhiều so với K-5 của họ lúc bấy giờ.
Liên Xô nhanh chóng sao chép mẫu AIM-9B, cho ra đời dòng tên lửa đối không K-13 (NATO định danh: AA-2 Atoll) và đưa vào biên chế năm 1960.
Sau đó 2 năm, phiên bản cải tiến K-13A (AA-2A) được triển khai cho các tiêm kích nước này.
Phiên bản K-13A đều có kích thước và hình dáng giống hệt tên lửa AIM-9B.
Sau khi thu được một số quả đạn K-13A, các nhà nghiên cứu của NATO kết luận K-13A và AIM-9B có thể tráo đổi linh kiện cho nhau mà vẫn hoạt động bình thường.
Được biết, quả tên lửa được thiết kế với chiều dài 2830 mm; sải cánh: 530 mm; đường kính: 127 mm.
Tên lửa có trọng lượng khoảng 70 kg.
K-13A có vận tốc tối đa Mach 2,5, sử dụng hệ thống dẫn đường hồng ngoại IRH, một số biến thể về sau này được dẫn đường bằng radar bán chủ động SARH.

K-13A có đầu nổ nặng 11,3kg với thuốc nổ cực mạnh đủ để phá hủy các chiến đấu cơ đối phương.

Riêng với các máy bay ném bom chiến lược B-52, các chuyên gia cho rằng cần phải 2 quả K-13 mới có thể hạ chúng.

Tuy sao chép thành công tên lửa AIM-9B, song phiên bản nâng cấp của Mỹ lại vượt trội K-13A, vì thế một chiến địch điệp vụ đánh cắp phiên bản mới của tên lửa AIM-9 được Liên Xô bắt đầu. (Còn tiếp).