- Sức mạnh ngoại giao nghị viện trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc (Kỳ 2): Tích cực, trách nhiệm, toàn diện, chủ động thúc đẩy hiệu quả các lợi ích của Việt Nam qua kênh nghị viện
- Sức mạnh ngoại giao nghị viện trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc (Kỳ 1): Giá trị thời đại và sứ mệnh mới trong kỷ nguyên mới
Tham dự Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 149 (IPU-149) và các Hội nghị liên quan tại Geneva, Thụy Sỹ từ ngày 13 đến 17-10-2024, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Mạnh Tiến làm Trưởng đoàn đã đề nghị nghị viện các nước và Liên minh Nghị viện thế giới cùng phối hợp, đề cao vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc thúc đẩy hòa bình và phát triển bền vững… |
Ở hoạt động đối ngoại Quốc hội khác, nhận lời mời của Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia Samdech Techo Hun Sen, Chủ tịch Quốc hội Campuchia Samdech Khuon Sudary và Chủ tịch Ủy ban Thường trực Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á Chung Eui-yong, ngày 21-11-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam thăm chính thức Vương quốc Campuchia, tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ 12 của Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á và Phiên họp toàn thể lần thứ 11 của Nghị viện Quốc tế vì Bao dung và Hòa bình. Cùng thời điểm, được sự đồng ý của Chủ tịch Quốc hội, Việt Nam cũng đang tích cực chuẩn bị để đăng cai tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF) và tổ chức Diễn đàn Nghị viện về hợp tác Pháp ngữ về Nông nghiệp bền vững, An ninh lương thực và Ứng phó với biến đổi khí hậu từ ngày 21 đến 24-1-2025. Theo Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Vũ Hải Hà thông tin tại hội nghị triển khai công tác tổ chức ngày 18-11-2024, thì việc Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành APF nhằm triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng, thực hiện Chỉ thị số 25-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, chủ động và tích cực đóng góp định hình các thể chế đa phương. Đây cũng là hoạt động đầu tiên của Liên minh Nghị viện Pháp ngữ sau khi Cộng đồng Pháp ngữ tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 19 tại Thủ đô Paris, Pháp tháng 10-2024, góp phần triển khai các nghị quyết, chiến lược mới đã được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh.
Việc đăng cai Hội nghị Ban Chấp hành APF khẳng định vai trò dẫn dắt của Việt Nam trong các hoạt động của Cộng đồng Pháp ngữ, Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ và APF tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đồng thời, khẳng định cam kết chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm các hoạt động ngoại giao nghị viện đa phương của Việt Nam; tiếp tục phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam và Quốc hội nước ta tại các cơ chế hợp tác nghị viện khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, Diễn đàn Nghị viện về hợp tác Pháp ngữ về Nông nghiệp bền vững, An ninh lương thực và Ứng phó với biến đổi khí hậu được tổ chức nhằm tăng cường trao đổi, chia sẻ các kinh nghiệm thực tiễn và phát huy vai trò của các nghị sĩ Pháp ngữ trong giải quyết các vấn đề toàn cầu và các vấn đề thời sự đặc biệt được quan tâm trong Cộng đồng Pháp ngữ...
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp đồng chí Esteban Lazo Hernández, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Cuba nhân dịp thăm và làm việc tại Việt Nam, ngày 2-11-2024 |
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chào đón đồng chí Esteban Lazo Hernández, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Cuba thăm và làm việc tại Việt Nam, ngày 2-11-2024 |
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã chủ trì Lễ đón Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Armenia Alen Simonyan thăm chính thức Việt Nam, ngày 19-11-2024 |
Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Armenia Alen Simonyan và Đoàn đại biểu Quốc hội Cộng hòa Armenia thăm Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám, ngày 19-11-2024 |
Kênh đối ngoại chủ lực trong kỷ nguyên mới
Tiếp theo “Kỳ 2: Tích cực, trách nhiệm, toàn diện, chủ động thúc đẩy hiệu quả các lợi ích của Việt Nam qua các kênh nghị viện” của loạt bài viết này, nhóm tác giả tiếp tục điểm qua những hoạt động đối ngoại của Quốc hội đang và sẽ diễn ra trong thời gian tới để thấy, kênh đối ngoại chủ lực trong tổng thể đối ngoại của Đảng, Nhà nước đã không ngừng, không nghỉ, tiếp tục được đẩy mạnh. Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngoại giao Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Quốc hội tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam; phát huy những lợi thế nhằm mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nước ta với các nước; thể hiện rõ ràng, mạnh mẽ ý nguyện của Việt Nam - sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các dân tộc trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, hợp tác, phát triển.
Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ghi mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế và hợp tác với Liên hợp quốc |
Hiện tại, Quốc hội có quan hệ đối ngoại với hầu hết nghị viện các nước mà Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Hoạt động song phương được tăng cường, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới, đưa các mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã góp phần quan trọng củng cố, phát triển quan hệ với các nước làng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, Nghị viện châu Âu (EP), nghị viện nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Trong đó, củng cố và từng bước đẩy mạnh quan hệ truyền thống với các nước Trung và Đông Âu; khai thông và phát triển quan hệ với nghị viện các nước thuộc khu vực châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ theo chủ trương chung của Nhà nước ta.
Hoạt động đối ngoại đa phương tiếp tục được đẩy mạnh. Tính đến nay, Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức liên nghị viện toàn cầu và khu vực. Quốc hội nước ta ngày càng phát huy vai trò thành viên tích cực, chủ động trên các diễn đàn khu vực và thế giới ở Hội đồng Liên Nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA); Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF); Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU); Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF); Hội nghị Đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP)... Ngoài ra, Quốc hội nước ta còn tham gia các diễn đàn liên nghị viện chuyên ngành như Hiệp hội các nghị sĩ thầy thuốc quốc tế (IMPO); Diễn đàn Nghị sĩ châu Á về dân số và phát triển (AFPPD); Diễn đàn Nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương về môi trường và phát triển (APPCED)...
Chúng ta không hề “tham gia cho có”, “đánh trống ghi tên”, mà đã đóng góp tích cực vào hoạt động chung của các thiết chế hợp tác liên nghị viện; đăng cai nhiều diễn đàn nghị viện đa phương, quốc tế và khu vực; chủ động đề xuất các sáng kiến, đưa ra những khuyến nghị mang tính xây dựng nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả của các tổ chức này; nhiều sáng kiến do Quốc hội nước ta đề xuất được nghị viện các nước tán thành và trở thành nghị quyết của các tổ chức, diễn đàn hợp tác liên nghị viện đa phương như AIPA, APF, ASEP... Một ví dụ điển hình được coi là thành tựu ngoại giao nổi bật của Quốc hội Việt Nam chính là việc nước ta được bầu vào Ban Chấp hành Liên minh Nghị viện Thế giới - IPU (nhiệm kỳ 2015-2019) - cơ quan lãnh đạo của tổ chức liên nghị viện toàn cầu duy nhất và lớn nhất. Quốc hội Việt Nam đã có nhiều sáng kiến, khuyến nghị thúc đẩy hợp tác liên nghị viện, được các nước đánh giá cao, thể hiện sự tham gia tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác đa phương nói chung.
Thông qua các hoạt động đối ngoại của Quốc hội, nhiều cơ chế hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với cơ quan lập pháp các nước đã được thiết lập và triển khai có hiệu quả. Các lĩnh vực và nội dung hợp tác cũng ngày càng phong phú như trao đổi kinh nghiệm về xây dựng pháp luật, giám sát hành pháp, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động... Phương thức thực hiện cũng đa dạng, từ việc trao đổi đoàn của lãnh đạo Quốc hội, cơ quan của Quốc hội đến hoạt động của các Nhóm nghị sĩ hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam và nghị viện các nước.
Với vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, Quốc hội đã đẩy mạnh quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế và thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam. Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, pháp lệnh liên quan trực tiếp đến công tác đối ngoại như: Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; Luật Biên giới quốc gia; Luật Quốc tịch; Luật Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Pháp lệnh xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế quan trọng như: Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)... Rõ ràng, Quốc hội đã góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và từng bước hoàn thiện nền tảng pháp lý cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại phù hợp với điều kiện của đất nước, đồng thời từng bước đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đặc biệt, ngoại giao nghị viện đã góp phần giải quyết thỏa đáng nhiều vấn đề cụ thể trong các mặt công tác đối ngoại khác như biên giới lãnh thổ, đấu tranh trên các vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, thông tin tuyên truyền đối ngoại, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, vận động thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, xử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế với nhiều đối tác... Đồng thời, ngoại giao nghị viện cũng tham gia trực tiếp cũng như cùng với các kênh đối ngoại khác tích cực vận động thu hút FDI, ODA; vận động Quốc hội Mỹ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam; góp phần tích cực vào quá trình đàm phán gia nhập WTO; tích cực vận động, đấu tranh với Mỹ, EU về vấn đề áp dụng thuế bán phá giá đối với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam; vận động các nước công nhận quy chế thị trường, áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) cho Việt Nam...
Trong những nhiệm kỳ gần đây, Quốc hội ngày càng đẩy mạnh thực hiện chức năng giám sát về lĩnh vực đối ngoại, góp phần làm cho công tác này ngày càng đi vào nền nếp và có hiệu quả cao. Một trong những nét mới nổi bật liên quan đến sự phối hợp trong công tác giám sát thời gian gần đây là việc Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đã quy định rõ, trước khi đi đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế, các bộ, ngành của Chính phủ cần trao đổi, thông báo tới các Ủy ban tương ứng của Quốc hội để các cơ quan này nắm được và thực hiện chức năng giám sát các hiệp định, hiệp ước mà Việt Nam sẽ đàm phán, ký kết. Những vấn đề có ý kiến khác nhau, nhất là những vấn đề không tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế hoặc pháp luật của các nước, cần được báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội tùy theo thẩm quyền.
Phương thức thực hiện hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng đa dạng như trao đổi các đoàn thăm, làm việc của lãnh đạo Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; hoạt động của các Nhóm nghị sĩ hữu nghị; tham dự các hội nghị nghị viện quốc tế; tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế. Trong số này, hình thức hoạt động phổ biến nhất là trao đổi các đoàn nghị viện theo kế hoạch đối ngoại hàng năm do Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét và ban hành trên cơ sở phát huy vai trò của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong từng lĩnh vực công tác được phân công. Quốc hội ta còn đăng cai nhiều hội nghị, hội thảo nghị viện quốc tế lớn trên tinh thần trao đổi cởi mở, thẳng thắn và xây dựng về những vấn để hợp tác song phương cũng như các vấn đề khu vực và quốc tế. Qua các cuộc tiếp xúc, trao đổi, các nghị sĩ, bạn bè quốc tế hiểu Việt Nam hơn, mong muốn và coi trọng việc mở rộng, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Việt Nam.
Đến nay, sự phối hợp giữa ngoại giao nghị viện và ngoại giao Nhà nước đã trở thành thông lệ, là điều kiện bảo đảm thực hiện, có những bước tiến lớn, thể hiện rõ nét qua các kết quả đạt được trong mọi mặt của công tác đối ngoại. Bên cạnh đó, sự phối hợp này cũng gặp một số khó khăn, bất cập, nổi lên là nhận thức về vai trò, vị trí của mỗi kênh đối ngoại có lúc chưa thực sự thống nhất cao, hạn chế vể nguồn lực và điều kiện triển khai phối hợp, hiệu quả phối hợp trong xử lý một số vấn đề chưa được như mong muốn, tính chủ động của từng kênh đối ngoại trong thúc đẩy một số hoạt động phối hợp chưa thực sự cao.
Bên lề Phiên họp Ban Chấp hành Đại hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 45 (AIPA-45) diễn ra tại Thủ đô Viêng Chăn (Lào), Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội nước ta đã đến thăm Đại sứ quán và gặp gỡ đại diện cộng đồng người Việt Nam tại Lào, ngày 18-10-2024 |
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Việt Nam Vũ Hải Hà và Chủ nhiệm Ủy ban Chính sách đối ngoại và Hợp tác Liên Nghị viện, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Ukraine Oleksandr Merezhko tham dự AIPA-45 |
Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng về việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tại Hội nghị Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 143 (IPU-143) (Trong ảnh: Đồng chí Vũ Hải Hà, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam gặp gỡ Trưởng đoàn Nghị viện Peru tại IPU-143) |
Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam với Đoàn đại biểu Nghị sĩ Na Uy tham dự AIPA-45 |
Đoàn đại biểu tham dự Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 tham quan Vịnh Hạ Long |
Sứ mệnh - Tầm nhìn và Định hướng phát triển đến năm 2030
Tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp với nhiều nhân tố khó dự báo, tác động đa chiều tới môi trường an ninh, chính trị, đến công cuộc đổi mới của đất nước, trong đó có nhiều vấn đề chưa có tiền lệ. Vì vậy, việc phải có các giải pháp cụ thể, đồng bộ để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động của đối ngoại Quốc hội trong bối cảnh mới là nhiệm vụ cấp bách hiện nay, đặc biệt như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm là “góp phần nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế”.
Quốc hội chuyển động mạnh mẽ, tích cực đổi mới toàn diện từ tổ chức đến hoạt động trong chuyển động mới của đất nước. Ngay quãng giữa của Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, ngày 18-11-2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã ký Nghị quyết 1297/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập Ban Chỉ đạo về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả tại các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội. Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất hành động, chắc chắn rằng bộ máy giúp việc của Quốc hội, trong đó có cơ quan đối ngoại của Quốc hội không thể đứng ngoài quy luật tất yếu của sự vận động.
Quốc hội đang rất khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ hội nhập quốc tế; đã phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế; thực hiện việc giám sát thực thi các hiệp ước, hiệp định và thỏa thuận quốc tế của Việt Nam, nhằm bảo đảm Việt Nam tôn trọng và thực hiện có hiệu quả các cam kết; trong đó có các hiệp ước, hiệp định về biên giới với các nước láng giềng; đôn đốc, tạo mọi điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất để hoàn thành việc phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền với các nước láng giềng; thúc đẩy đàm phán để giải quyết hòa bình các vấn đề tồn tại, tìm giải pháp cơ bản, lâu dài mà các bên đều có thể chấp nhận được.
Cũng từ tình hình thực tế là hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng sôi động đòi hỏi Quốc hội triển khai hoạt động đối ngoại của mình theo chương trình tổng thể hàng năm, có sự phân công và phối hợp trong triển khai thực hiện theo các cấp độ: Quan hệ cấp cao giữa lãnh đạo Quốc hội ta với lãnh đạo nghị viện các nước; quan hệ trực tiếp giữa các cơ quan của Quốc hội: Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, Văn phòng Quốc hội; hoạt động của các Nhóm nghị sĩ hữu nghị. Bên cạnh những hoạt động đối ngoại của các Nhóm nghị sĩ hữu nghị, cần chú ý đến việc tạo dựng mối quan hệ cá nhân giữa đại biểu Quốc hội nước ta và nghị sĩ các nước. Thực tế trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc đã chứng minh rằng, quan hệ cá nhân giữa nghị sĩ các nước giúp ích rất nhiều cho việc củng cố lòng tin và xây dựng vị thế đất nước. Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, tạo dựng vị thế đất nước đã trở thành một mục tiêu của ngoại giao trên cơ sở phát huy sức mạnh mềm của quốc gia - đó chính là quảng bá nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thông qua con đường ngoại giao nghị viện, Quốc hội Việt Nam đã trực tiếp tham gia đối thoại về nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và đã thu được những kết quả tích cực. Việc Quốc hội nước ta tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các tổ chức liên nghị viện đã chứng tỏ quyết tâm cao của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực, đồng thời khẳng định vị thế và dấu ấn của ta trong các hoạt động ngoại giao nghị viện, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam. Hoạt động đối ngoại đã phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế trên cả bình diện song phương và đa phương; xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết về lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và phát triển các quan hệ kinh tế song phương. Đồng thời, góp phần vào việc thông tin quảng bá hình ảnh của Việt Nam, giới thiệu công cuộc đổi mới của Việt Nam trong đó có vai trò ngày càng được tăng cường của Quốc hội, thể hiện tiến trình phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đối ngoại của Quốc hội cũng đã tích cực giới thiệu các thông tin liên quan đến tình hình, kinh nghiệm quốc tế, đến AIPA nhất là trong nhiệm kỳ Việt Nam làm Chủ tịch AIPA. Trong các vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo, chúng ta cũng chủ động đấu tranh có lý có tình, cung cấp thông tin cho các đối tác quan tâm để tránh hiểu sai lệch về tình hình Việt Nam, mở rộng đáng kể lực lượng ủng hộ nước ta tại nghị viện các nước và quốc tế. Rõ ràng là, kể từ Quốc hội khóa đầu tiên đến nay, hoạt động đối ngoại của Quốc hội, trong đó “hạt nhân” là ngoại giao nghị viện không ngừng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, luôn là bộ phận không thể thiếu và không tách rời của đối ngoại Việt Nam nói chung, đặc biệt trong thực hiện Chỉ thị số 25-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.
Nâng tầm hoạt động đối ngoại Quốc hội và ngoại giao nghị viện trong kỷ nguyên mới
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, phát biểu thảo luận tại phiên họp ngày 4-11-2024, Đại biểu Quốc hội Lý Thị Lan, Phó trưởng Đoàn đại biểu chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang, Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đánh giá, năm 2024, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục là điểm sáng, các hoạt động đối ngoại cấp cao diễn ra sôi động, cục diện đối ngoại không ngừng được mở rộng, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, nắm bắt thời kỳ lịch sử với quan điểm chỉ đạo đối ngoại là trọng yếu và thường xuyên, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong toàn hệ thống chính trị nhằm triển khai đường lối đối ngoại của Đảng là hết sức cấp bách. Đại biểu Quốc hội Lý Thị Lan kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy chế thống nhất quản lý và triển khai các hoạt động đối ngoại, phát huy cao nhất mối quan hệ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; phối hợp hiệu quả giữa các trụ cột và các lĩnh vực đối ngoại. Cùng với đó là nâng cao hiệu quả và chiều sâu trong các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế và văn hóa đối ngoại theo hướng hoạt động đối ngoại hỗ trợ bộ, ngành, địa phương khơi dậy động lực phát triển kinh tế, nắm bắt cơ hội.
“Hoạt động đối ngoại phải thực sự mang bản sắc dân tộc và thời đại, phát huy sức mạnh mềm để nâng cao uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế” - Đại biểu Quốc hội Lý Thị Lan nhận định - “Ngoài ra, chúng ta cần quan tâm tăng cường nguồn lực cho đối ngoại để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới như đào tạo nguồn nhân lực, nhất là năng lực khoa học công nghệ và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại. Mặt khác, cần đảm bảo ngân sách cho hoạt động của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và chế độ chính sách cho cán bộ ngoại giao lên mức ngang với các nước ở trong khu vực có thu nhập tương đương”.
Một trong những mục tiêu chính của tầm nhìn “về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030” là thúc đẩy sự phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của Việt Nam, xây dựng một nền đối ngoại hiện đại, hiệu quả và có tầm ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế. Vì vậy, đối ngoại Quốc hội sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các chính sách phát triển bền vững, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối ngoại Quốc hội Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một trụ cột quan trọng trong nền ngoại giao toàn diện của đất nước. Với những xu hướng phát triển đã và đang diễn ra, đối ngoại Quốc hội không chỉ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, xây dựng một môi trường hợp tác hòa bình, ổn định và phát triển bền vững cho đất nước. Để hoàn thành sứ mệnh của hoạt động đối ngoại Quốc hội nói chung và ngoại giao nghị viện nói riêng trong nền ngoại giao toàn diện của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần:
- Xây dựng vững chắc cầu nối tin cậy giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới qua kênh ngoại giao nghị viện. Ngoài các hội nghị đa phương, Quốc hội Việt Nam cần chủ động xây dựng và thực hiện các kế hoạch hợp tác song phương với các nghị viện của các quốc gia đối tác chiến lược, đặc biệt là các nước trong khu vực ASEAN và các nước có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Thực hiện các cuộc trao đổi đoàn cấp cao và tổ chức các hoạt động giao lưu giữa các đại biểu Quốc hội sẽ mở ra cơ hội hợp tác trong nhiều lĩnh vực, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu và thực chất hơn. Những cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa các nghị sĩ Việt Nam và nghị sĩ các nước không chỉ tạo điều kiện để các bên hiểu rõ hơn về lập trường và quan điểm của nhau, mà còn xây dựng mối quan hệ cá nhân giữa các nhà lập pháp, góp phần củng cố lòng tin và sự tin cậy giữa các quốc gia. Những cuộc gặp gỡ này không chỉ giúp thúc đẩy hợp tác song phương mà còn góp phần củng cố lòng tin giữa các quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề cùng quan tâm trong tinh thần đối thoại và hợp tác.
- Tăng cường ngoại giao nghị viện đa phương. Một trong những xu hướng quan trọng của đối ngoại Quốc hội là đẩy mạnh ngoại giao nghị viện đa phương. Ngoại giao nghị viện đa phương là kênh quan trọng giúp Việt Nam khẳng định vai trò và vị thế của mình trên trường quốc tế. Trong bối cảnh các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống, dịch bệnh… ngày càng trở nên phức tạp, việc hợp tác đa phương là điều cần thiết. Để nâng cao hiệu quả của ngoại giao nghị viện đa phương, Quốc hội Việt Nam bên cạnh việc tăng cường tham gia vào các diễn đàn nghị viện quốc tế như IPU, APPF, AIPA…, thì cần chủ động hơn nữa trong việc đưa ra các sáng kiến, đề xuất và tham gia tích cực vào các hoạt động của các diễn đàn này. Đặc biệt, cần xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách có kinh nghiệm và năng lực để tham gia vào các lĩnh vực đối ngoại và ngoại giao nghị viện. Một ví dụ điển hình của sự hiệu quả, đó là tại Hội nghị Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 143 (IPU-143), Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng về việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Những sáng kiến này không chỉ nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ các quốc gia thành viên mà còn giúp nâng cao vai trò của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu, đồng thời khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Tầm nhìn đến năm 2030 đặt ra yêu cầu Quốc hội Việt Nam phải tích cực tham gia vào các diễn đàn nghị viện quốc tế, từ đó thúc đẩy hợp tác và đồng thời bảo vệ lợi ích quốc gia. Giai đoạn 2025-2030, Quốc hội Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng cường sự tham gia vào các diễn đàn quốc tế quan trọng như IPU, APPF và Hội nghị Thượng đỉnh G20. Việc tham gia tích cực vào các diễn đàn này sẽ giúp Việt Nam đóng góp nhiều hơn vào các vấn đề toàn cầu, đồng thời nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Đẩy mạnh hợp tác nghị viện song phương và ngoại giao nhân dân. Bên cạnh ngoại giao nghị viện đa phương, hợp tác nghị viện song phương và ngoại giao nhân dân đã đang được Quốc hội Việt Nam chú trọng phát triển. Việc xây dựng và củng cố quan hệ song phương với các quốc gia không chỉ giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau mà còn tạo nền tảng vững chắc cho hợp tác trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và giáo dục. Năm 2024, Quốc hội Việt Nam đã thực hiện nhiều chuyến thăm chính thức tới các nước trong khu vực châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Tại các cuộc gặp gỡ này, các bên đã thảo luận và ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng, từ việc thúc đẩy thương mại và đầu tư, đến việc trao đổi văn hóa và giáo dục. Những chuyến thăm này không chỉ giúp củng cố quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các đối tác chiến lược mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực.
- Nâng cao năng lực và chất lượng nguồn nhân lực trong đối ngoại Quốc hội. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình quốc tế ngày càng phức tạp, việc nâng cao năng lực và chất lượng nguồn nhân lực trong đối ngoại Quốc hội là một xu hướng tất yếu. Việc đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại có trình độ cao, kỹ năng chuyên sâu và hiểu biết sâu rộng về các vấn đề quốc tế là điều cần thiết để đảm bảo hiệu quả của các hoạt động đối ngoại. Quốc hội Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các đại biểu Quốc hội và cán bộ đối ngoại, tập trung vào các lĩnh vực như luật pháp quốc tế, ngoại ngữ và kỹ năng đàm phán. Những chương trình này đã giúp nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động đối ngoại của Quốc hội. Theo Đại sứ Ngô Quang Xuân, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo An ninh Thủ đô cho rằng: “Đường lối đối ngoại đã có, nhưng thực hiện hay không là con người, là cán bộ. Cả một tập thể phải thống nhất, đồng tâm như vậy. Nhiệm vụ của mình, nhưng cán bộ không đáp ứng được cái tầm của nhiệm vụ thì chúng ta khó phát triển được”.
- Hướng tới ngoại giao số. Tổng Bí thư Tô Lâm khi nói về những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đã nhấn mạnh: Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…, rồi phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số, phương thức sản xuất số… Vậy việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động đối ngoại để phát triển “ngoại giao số” là xu hướng quan trọng trong đối ngoại Quốc hội. Việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số không chỉ giúp tăng cường hiệu quả của các hoạt động đối ngoại mà còn mở ra nhiều cơ hội mới cho việc tiếp cận và tương tác với cộng đồng quốc tế. Trong giai đoạn 2021-2024, Quốc hội Việt Nam đã áp dụng công nghệ kỹ thuật số vào các hoạt động đối ngoại, đặc biệt là trong việc tổ chức các cuộc họp trực tuyến với các đối tác quốc tế. Những cuộc họp này không chỉ giúp duy trì sự liên lạc thường xuyên giữa các bên mà còn mở ra cơ hội hợp tác mới trong kỷ nguyên số. Ngoài ra, Quốc hội cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và các công cụ hỗ trợ đối ngoại số để nâng cao hiệu quả trao đổi thông tin, quản lý hồ sơ và theo dõi tiến độ các hoạt động đối ngoại. Đồng thời, tổ chức các cuộc họp trực tuyến với các đối tác quốc tế không chỉ giúp tiết kiệm chi phí và thời gian mà còn mở rộng phạm vi hoạt động đối ngoại của Quốc hội. Ngoài ra, phát triển các kênh truyền thông đối ngoại hiệu quả cũng là một yếu tố quan trọng để quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
* * *
Năm 2030, một trong những mục tiêu chính của tầm nhìn đến dấu mốc đó là thúc đẩy sự phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của Việt Nam, xây dựng một nền đối ngoại hiện đại, hiệu quả và có tầm ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế. Vì vậy, đối ngoại Quốc hội, trong đó “hạt nhân” là ngoại giao nghị viện sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các chính sách phát triển bền vững, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối ngoại Quốc hội Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một trụ cột quan trọng trong nền ngoại giao toàn diện của đất nước. Với những thành tựu đã đạt được, với những xu hướng phát triển đã và đang diễn ra, có thể khẳng định rằng ngoại giao nghị viện không chỉ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước, mà còn góp phần xây dựng một Việt Nam mạnh mẽ, tự tin, có trách nhiệm; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, xây dựng một môi trường hợp tác hòa bình, ổn định và phát triển bền vững cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ông Hoàng Bình Quân - nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; nguyên Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội : Đối ngoại Quốc hội tiên phong, mở đường để quốc gia phát triển
Quốc hội Việt Nam đang tiếp tục đổi mới, tăng cường gắn kết, phối hợp đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, tận dụng vai trò “sức mạnh mềm” của ngoại giao nghị viện để đóng góp hiệu quả vào việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, đa dạng hóa, đa phương hóa, nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Báo An ninh Thủ đô đã có cuộc trao đổi với ông Hoàng Bình Quân - nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, nguyên Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội xung quanh vấn đề này.
Chủ tịch Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) Duarte Pacheco đã sử dụng cụm từ “hoàn hảo” để nói về công tác tổ chức Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 của nước chủ nhà Việt Nam
Từ thụ động đến chủ động
- Từng là Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, ông đánh giá thế nào về những dấu ấn của ngoại giao Việt Nam trong thời gian qua?
- Ông Hoàng Bình Quân: Thời gian qua, ngoại giao được đánh giá là lĩnh vực nổi bật trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. Năm 2023, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng nhận xét, ngoại giao và những thành tựu về đối ngoại là điểm sáng trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vậy tại sao nó lại là điểm sáng? Đó là do nó thể hiện dấu ấn ở một số điểm:
- Dấu ấn thứ nhất là sự tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và mở rộng quan hệ. Trước đây chúng ta chỉ mới tích cực hội nhập quốc tế. Nhưng để phát triển chủ trương đối ngoại ấy, Đại hội Đảng XII, XIII đã nhấn mạnh là chúng ta phải chủ động tích cực. Ở đây không chỉ là vấn đề câu từ. Trước đây chúng ta tích cực, nhưng ở mức độ tích cực tham dự thôi. Còn bây giờ chúng ta chủ động, tức là chúng ta tham gia vào “luật chơi”, tham gia vào định hình các tổ chức đa phương. Hay nói cách khác là chúng ta từ thụ động chuyển sang chủ động trong hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong các cơ chế đa phương. Mà thực tế là vai trò của Việt Nam trong các cơ chế đa phương những năm qua nổi bật, rõ nét hơn rất nhiều. Trước đây chúng ta chỉ tham dự, chỉ là quan sát viên và nghe xem có gì phù hợp với chính sách của mình hay không. Còn bây giờ ta phải trực tiếp tham gia vào các cơ chế đó, bằng chứng là ta đã rất thành công dù ở Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) hay Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN (AIPA). Hay gần đây nhất, Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 mà Việt Nam đăng cái tổ chức cũng rất thành công và chúng ta gần như là người dẫn dắt. Đó là một bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam. Khi Việt Nam đảm nhận vị trí Ủy viên không Thường trực của Hội đồng Bảo an và các ủy ban khác của Liên hợp quốc, chúng ta được đánh giá rất cao. Như thế nghĩa là chúng ta bước ra thế giới với một tầm vóc mới, hình ảnh của chúng ta đã được cải thiện rất nhiều, chính vì vậy chúng ta có sức hấp dẫn đối với bạn bè quốc tế.
Việt Nam yêu chuộng hòa bình, thành viên có trách nhiệm, tham gia tích cực, chủ động và hiệu quả vào công việc chung của Liên hợp quốc trong xử lý các thách thức toàn cầu Ảnh: nguyễn Á
Tôi xin nhắc lại vài con số nó để chứng minh điều đó. Việt Nam có quan hệ với 193 nước, quan hệ với hơn 230 thị trường và các vùng lãnh thổ. Đảng ta quan hệ với 247 đảng, trong đó có rất nhiều đảng không phải là Đảng Cộng sản, thậm chí họ là đảng cánh tả, là các đảng dân chủ của các quốc gia khác ý thức hệ với chúng ta. Như thế là chúng ta đã vượt lên mọi rào cản về ý thức hệ để thiết lập quan hệ và tìm kiếm những điểm tương đồng nhằm theo đuổi muc tiêu lợi ích quốc gia. Rõ ràng đó là một sự chủ động rất mạnh. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới đang biến động nhanh, bất an, bất định, khó lường… thì tư tưởng chủ động để mở rộng hợp tác quốc tế là cực kỳ quan trọng. Tôi có thể khẳng định với các bạn, riêng trong ASEAN thì Việt Nam là quốc gia có độ “mở” rộng nhất, có những mối quan hệ lớn nhất. Thậm chí tôi cho rằng đây cũng là một bản lĩnh Việt Nam. Bởi vì có những điều kiện, những thực lực trong nước chúng ta chưa bằng được các nước trong khu vực, nhưng chúng ta vẫn tự tin để mình tham gia vào “sân chơi” chung của thế giới để tìm kiếm lợi ích. Tôi cho rằng, đây chẳng những là dấu ấn của ngoại giao Việt Nam mà còn là một bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp đoàn đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ và nữ doanh nhân Lào và Campuchia nhân dịp tham dự Diễn đàn kết nối, giao lưu nữ doanh nhân 3 nước với chủ đề “Nữ doanh nhân và Kinh tế xanh”, ngày 4-7-2024
- Dấu ấn thứ hai, bây giờ nói đến ngoại giao là nói đến tính tiên phong, ngoại giao phải tham gia giữ nước, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa. Bằng mọi giá ta phải giữ môi trường hòa bình để phát triển, phải giữ được chế độ, chủ quyền để nhân dân yên ổn làm ăn. Sau đó là phải giữ được cục diện quan hệ, nhất là quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác lớn, những thị trường quan trọng… Nếu để tuột khỏi tay thì lập tức sẽ ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của người dân ngay. Chúng tôi vẫn nói vui với nhau, anh đi chợ mà không bán được hàng hóa thì coi như lỗ vốn công đi rồi. Hay nuôi được đàn gà mà ông hàng xóm ghen ghét chỉ rình phun thuốc cho chết sạch còn nói chuyện gì. Vì thế, láng giềng ổn định, quan hệ với các đối tác lớn luôn đảm bảo cục diện là cực kỳ quan trọng.
- Dấu ấn thứ ba đồng thời cũng là một điểm rất đặc sắc, rất Việt Nam, đó là chúng ta giữ được nền tảng hữu nghị để phát triển. Nền tảng hữu nghị ấy chính là lòng dân, là quan hệ nhân dân, là nền tảng xã hội về mặt tinh thần. Đó cũng là điểm sáng trong ngoại giao tâm công của Việt Nam. Mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước, chúng ta làm rất tốt, đấy là hậu thuẫn lớn nhất mà chúng ta gọi là nền tảng xã hội hữu nghị. Nền tảng này hậu thuẫn cho đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước. Ví dụ, chúng ta có thể có những tranh chấp, chúng ta cũng có thể có những xung đột nào đó, với quốc gia nào đó, thì đấy là câu chuyện mà các cơ quan chức trách phải giải quyết, nhưng người dân giữa hai nước với nhau thì luôn luôn giữ quan hệ tốt. Giữ được nền tảng quan hệ hữu nghị này rất quan trọng. Và tất cả những điều đó sẽ tạo ra môi trường ổn định để chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, đạt được những mục tiêu của mình.
Việt Nam là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của Liên hợp quốc được cộng đồng quốc tế đánh giá cao
- Dấu ấn thứ tư là chúng ta đưa hình ảnh Việt Nam, đưa các mối quan hệ lên tầm cao mới và đi vào chiều sâu. Ví dụ chúng ta thiết lập đối tác với Mỹ rất khó khăn, hai nước đã có một quá khứ đau thương, thế nhưng bây giờ lại là Đối tác Chiến lược Toàn diện. Hiện chúng ta có 30 quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện. Trong đó có tới 17 quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với tổng 20 nước trong G20. Hay như chúng ta có quan hệ đối tác toàn diện với toàn bộ ASEAN, chúng ta có quan hệ với 6/7 nước G7, chúng ta có quan hệ với tất cả các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Như thế có thể nói, đây là cơ sở cực kỳ quan trọng để chúng ta có được thế và lực để tiến hành các đàm phán. Chúng ta chủ động đàm phán và xử lý những mối quan hệ trong các liên kết quốc tế rất khéo léo. Ví dụ khi ta chủ động đàm phán các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thì Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cực kỳ phức tạp. CPTPP là một FTA thế hệ mới, nó không đơn thuần là một hiệp định về kinh tế mà là hiệp định chiến lược, địa chính trị rất sâu đậm. Khi ký những hiệp định này vô cùng khó khăn. Hay khi chúng ta ký với EU cũng mất hơn 9 năm trời mới đàm phán xong. Nói như vậy đế thấy chúng ta đã quyết tâm để chủ động đàm phán. Và cuối cùng chúng ta ký tới 16 FTA, trong tương lai có thể lên đến xấp xỉ 20.
Ông Hoàng Bình Quân - nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương trao đổi với phóng viên Báo An ninh Thủ đô
- Dấu ấn thứ năm là ngoại giao kinh tế đã được đẩy mạnh. Trước đây chúng ta đối ngoại chỉ chú trọng đến an ninh chính trị và bang giao, chứ để làm ăn, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đơn hàng thì chưa chú ý. Khi đã xác định ngoại giao kinh tế là trung tâm thì các lĩnh vực ngoại giao khác cũng phục vụ cho ngoại giao kinh tế. Điều này phù hợp với giai đoạn mà chúng ta đặt ra là phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Những năm vừa qua chúng ta thấy rõ ràng dấu ấn của ngoại giao kinh tế, đặc biệt là sau năm 2022 chúng ta có Chỉ thị của Ban Bí thư lấy ngoại giao kinh tế làm trung tâm, các lĩnh vực ngoại giao khác phục vụ cho ngoại giao kinh tế. Các cơ quan ngoại giao của ta ở nước ngoài, các bộ, ngành bắt đầu định hướng vào vấn đề này. Do đó, bây giờ chúng ta mới có con số 680 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, đó là con số rất lớn. Ngoại giao đang mở đường để chúng ta phát triển.
- Những dấu ấn như ông vừa phân tích, đánh giá rõ ràng là rất quan trọng đối với đất nước. Vậy tại sao đến thời điểm này chúng ta mới thúc đẩy mạnh mẽ đối ngoại Quốc hội, thưa ông?
- Đó là câu chuyện không chỉ của Việt Nam mà còn là của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Trong lịch sử ngoại giao thì sau này chúng ta mới bắt đầu chú ý nhiều hơn đến đối ngoại Quốc hội/Nghị viện. Đặc biệt những năm gần đây thì đối ngoại Quốc hội/Nghị viện được đẩy mạnh và rất chú trọng, tại sao như vậy? Thứ nhất, Quốc hội/Nghị viện là cơ quan dân cử, là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho tiếng nói của nhân dân. Có rất nhiều lĩnh vực mà ngoại giao Nhà nước vì những khuôn khổ ràng buộc không đề cập được thì ngoại giao nhân dân làm được, ngoại giao nghị viện làm được. Thứ hai, không gian quan hệ của đối ngoại Quốc hội/Nghị viện là rất rộng, có thể quan hệ với bất cứ cơ quan dân cử nào của các quốc gia trên thế giới mà không bị rào cản, kể cả rào cản về ý thức hệ. Tôi lấy ví dụ, đảng của chúng ta là Đảng Cộng sản, đảng nước bạn thuộc cánh hữu, vậy thì hai đảng chưa chắc đã có thể quan hệ với nhau. Sau này có cách nhìn khai phóng hơn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua rào cản ý thức hệ để mở rộng quan hệ với các đảng không phải cộng sản, thì Quốc hội/Nghị viện là “sân chơi” mênh mông tại sao lại không thể quan hệ với nhau được. Vậy thì không gian quan hệ và đối tác quan hệ là rất quan trọng. Tại sao nói vậy? Bởi các nghị sĩ là những người ưu tú do dân bầu ra, họ là những người làm luật, là những người quyết định đến chủ trương của quốc gia đó. Sau này quan hệ của chúng ta với họ có vấn đề gì thuộc thẩm quyền của Quốc hội/Nghị viện thì họ đã hiểu chúng ta rồi, họ đã đi trước mở đường, tiếp xúc cử tri cũng nói hết rồi. Vì thế, theo tôi, đây là cách tuyên truyền đến đối tác quan trọng nhất để lan tỏa giúp bạn bè hiểu chúng ta hơn, hiểu đúng hơn, hiểu cập nhật hơn. Khi đã hiểu nhau thì sẽ tin nhau, có tin nhau thì mới nhờ cậy nhau, giúp đỡ nhau. Tất cả những điều này tạo nên nền tảng hữu nghị quan trọng để thúc đẩy các kênh ngoại giao khác, đặc biệt là kênh ngoại giao giữa các chính phủ.
Thời gian vừa qua, đối ngoại Quốc hội của Việt Nam rất được chú trọng mà trong Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã phát biểu và khẳng định. Tôi từng là Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, nhưng đồng thời là ủy viên của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội thì thấy rằng, chúng ta đã thúc đẩy và triển khai các hoạt động nghị viện rất mạnh mẽ. Cỗ máy ngoại giao Việt Nam gồm 3 bộ phận: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, thì ngoại giao Quốc hội vừa mang tính đối ngoại nhân dân vừa mang tính ngoại giao Nhà nước. Thời gian qua chúng ta triển khai rất nhiều các đoàn cấp cao của Quốc hội đi làm việc với các nước, tổ chức tiếp xúc nghị sĩ, lập những nhóm nghị sĩ. Các nhóm nghị sĩ thời gian qua hoạt động ngày càng rộng mở và có chiều sâu. Đặc biệt dấu ấn của Việt Nam thể hiện rất rõ ở các cơ chế liên nghị viện và các cơ chế đa phương của nghị viện thế giới. Chúng ta cũng tổ chức rất thành công khi đăng cai, tổ chức IPU-32, hay là AIPA-41. Tôi nhớ có một vị trưởng đoàn quốc tế đã nói là “Việt Nam tổ chức như thế này chúng tôi không biết dùng từ gì hơn ngoài chữ “hoàn hảo”. Uy tín, trình độ tổ chức của chúng ta như thế nào thì bạn bè mới đánh giá như thế.
Hòa mình vào dòng chảy thế giới là một tất yếu
- Theo ông, đối ngoại Quốc hội sẽ có nhiệm vụ như thế nào trong thời điểm chúng ta bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?
- Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập nhiều lần đến khái niệm kỷ nguyên mới của dân tộc. Tôi thấy đây là một tầm nhìn, một định hướng, khát vọng rất ấn tượng. Không có thời điểm nào tốt hơn thời điểm này và theo tôi có những cơ sở rõ ràng để hiện thực hóa.
- Thứ nhất, về thực lực của Việt Nam ở thời điểm này ra sao? Hiện kinh tế chúng ta gấp 96 lần so với giai đoạn bắt đầu đổi mới năm 1986.
- Thứ hai là đường lối và kinh nghiệm của ta cho phép. Chúng ta đã có 40 năm đổi mới, đã có 35 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã trải qua gần 80 năm từ khi lập quốc và gần 100 năm Đảng ta lãnh đạo đất nước và dân tộc. Chúng ta có lý luận cho con đường của chúng ta và có thực tiễn để đi chứ không còn ở giai đoạn “ném đá dò đường” như trước đây.
- Thứ ba, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói là chưa bao giờ chúng ta có cơ đồ, tiềm lực, vị thế quốc tế như hiện nay. Đây là cơ hội để chúng ta có thể khai thác một cách hiệu quả, mạnh mẽ những nguồn lực từ bên ngoài và những nguồn lực có tính quyết định từ bên trong để thực hiện các mục tiêu lớn.
- Thứ tư là ý chí và văn hóa của người dân Việt Nam. Chúng ta đã vượt qua rất nhiều những thử thách, chông gai trong các kỷ nguyên trước. Từ kỷ nguyên giành độc lập tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi qua kỷ nguyên đổi mới, người dân chúng ta cũng đã khí phách, văn hóa Việt Nam cũng thấm đậm.
Do đó, bây giờ chúng ta phát huy được các yếu tố đó cộng với thực lực, những điều kiện quốc tế mà chúng ta đã có thì đây là thời điểm chúng ta đã bước sang một giai đoạn mới, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên dân tộc vươn mình. Tôi cho rằng, vươn mình nghĩa là vụt đứng lên, thì điều ấy đòi hỏi ta phải mạnh mẽ, phải đột phá để phát triển. Kỷ nguyên vươn mình này đang đặt ra nhiệm vụ ngoại giao của đất nước, trong đó có đối ngoại Quốc hội, những sứ mệnh mới. Khi dân tộc ta bước vào kỷ nguyên vươn mình thì cũng là lúc thế giới đang bước vào kỷ nguyên thông minh để thay cho kỷ nguyên công nghệ. Có hai xu thế rất mạnh trên thế giới hiện nay mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc, đó không phải là một sự lựa chọn mà là một tất yếu. Một là xu thế phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng khoa học 4.0 mà trí tuệ nhân tạo với AI là điển hình. Nó sẽ thay đổi toàn bộ phương thức quản trị và phương thức hoạt động của các quốc gia. Hai là xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể đứng một mình giống như hòn đảo hoang được, tất cả đều phải có bè bạn. Do đó, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam phải đặt trong một giai đoạn mang tính thời đại, đó là kỷ nguyên thông minh của thế giới. Vậy thì theo quan điểm của tôi, thời điểm này đang đặt ra cho chúng ta một số yêu cầu:
- Một là đối ngoại phải xác định vai trò tiên phong. Chúng ta phải khẳng định đối ngoại là thường xuyên, trọng yếu như nhiệm vụ quốc phòng - an ninh vậy. Điều này ngay cả đồng chí Tổng Bí thư cũng đã từng đề cập trong bài phát biểu Kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Ban Đối ngoại Trung ương. Đây là vấn đề rất quan trọng, đặt ra sứ mệnh và vị thế thời đại cho công tác ngoại giao nước nhà. Bây giờ chúng ta có quan hệ bạn bè quốc tế, hợp tác với rất nhiều quốc gia thì ngoại giao phải đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, thiết thực để phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc bây giờ không phải như ngày xưa. Trước đây lợi ích quốc gia, dân tộc là ta chỉ nhìn thấy lợi ích của ta. Nhưng trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay thì khái niệm này có 3 thành tố. Một là lợi ích của ta, hai là lợi ích của bạn, ba là lợi ích của nhân loại. Ví dụ hiện nay Việt Nam đang rất có trách nhiệm trong các vấn đề của nhân loại như biến đổi khí hậu, nước biển dâng… Chúng ta tích cực tham gia giải quyết thì thế giới sẽ thấy Việt Nam hoàn toàn xứng đáng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đó là điều cực kỳ quan trọng trong công tác ngoại giao.
- Hai là tất cả những hoạt động đối ngoại phải chủ động hơn, tích cực hơn để tạo được sự đan xen về chiến lược và lợi ích. Đây là một ràng buộc tất yếu trong quan hệ quốc tế. Tôi ví dụ nôm na thế này, hai người có thể chơi thân với nhau, nhưng giữa họ chẳng có gì ràng buộc cả. Thế thì khi bình ổn không sao, nhưng khi “có chuyện” thì sợi dây liên kết của họ sẽ không vững chắc. Nhưng nếu giữa hai người có những ràng buộc về lợi ích, chiến lược, thì ngay lập tức họ sẽ gắn bó với nhau rất chặt chẽ. Đây chính là chiều sâu của công tác ngoại giao, hoạt động đối ngoại mà chúng ta cần đạt được, là kế lâu bền cho ngoại giao nước nhà.
- Ba là phải tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả của ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường, để đất nước không bị lệ thuộc vào một thị trường. Rồi đa dạng hóa đối tác, thu hút hiệu quả nguồn lực từ nước ngoài để phát triển, đặc biệt là khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quản trị. Ngoại giao cũng cần tiếp tục đàm phán các FTA thế hệ mới, song phương và nhất là đối với những đối tác lớn. Chuẩn bị cho Đại hội XIV tới đây, chúng ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc thì phải đẩy mạnh những phương thức phát triển mới, phát triển xanh, phát triển số, phát triển năng lượng, đổi mới sáng tạo… Tất cả những thứ đó rất cần đến khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm của các quốc gia, đặc biệt là các đối tác lớn, những quốc gia phát triển. Muốn đi tắt đón đầu thì phải hướng vào những cái đó để kéo nguồn lực về cho đất nước.
- Cuối cùng, chúng ta sẽ làm chủ được mặt trận ngoại giao nếu chúng ta không bị động về tình hình và thông tin. Vì vậy, cần cập nhật, chủ động trước bối cảnh để chúng ta bám sát, dự báo đúng tình hình. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng trong đối ngoại bởi như tôi đã nói, ngoại giao là tiên phong, đi trước mà không nắm được đường như thế nào thì rất nguy hiểm.
- Từng làm đại biểu Quốc hội 4 khóa, lại là Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, ông đánh giá thế nào về sự quan tâm của các đại biểu đối với hoạt động đối ngoại của Quốc hội?
- Phải khẳng định, bây giờ đối ngoại Quốc hội đã ở giai đoạn phát triển mới, hiểu hơn, nhận thức hơn, chú trọng hơn, chủ động hơn. Do vậy, trong Quốc hội các đại biểu đều ý thức được trách nhiệm, không chỉ có các hoạt động trong nước mà còn hướng đến các hoạt động đối ngoại, đặc biệt là các đồng chí trong Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Hoạt động của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đang được duy trì rất hiệu quả, có chất lượng và rất thường xuyên. “Hơi thở” của hội nhập quốc tế đã thâm nhập vào hoạt động của Quốc hội rất sâu sắc. Trước đây có mấy khi chúng ta bàn đến luật pháp của nước A, nước B, mấy khi chúng ta bàn đến các công pháp quốc tế, nhưng bây giờ nó liên quan thì những người làm luật phải biết. Nó làm cho toàn bộ nhận thức cũng như sự hoạt động đối ngoại của Quốc hội diễn ra sôi động. Rồi các chuyến thăm cấp cao của Quốc hội bây giờ cũng chất lượng hơn, thậm chí không chỉ có Quốc hội mà còn nhiều thành phần, kể cả ngoại giao bên Đảng cũng tham dự. Nó thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa 3 bánh xe của ngoại giao Việt Nam là: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Vì thế, trong các chuyến đi thăm của đại biểu Quốc hội luôn có các trao đổi, ký kết, hợp tác mang tính chiều sâu. Rõ ràng đó là bước chuyển biến từ mặt nhận thức đến hành động và đã đạt hiệu quả rất rõ nét.
- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!