Mùa thu đất nước ​

ANTD.VN -“Mùa thu mở nước” - Hiếm có một quốc gia nào trên thế giới lại gắn vận mệnh đất nước, gắn vận mệnh dân tộc với mùa...

Mít tinh trước Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19-8-1945

“Lại về trong hội lớn cùng em Tháng Tám

Những nẻo đường trung du mùa thu mở nước

Xôn xao cánh ong bay….”.

Câu thơ này tôi đọc được từ 35 năm trước. Và cứ mỗi độ thu về thì câu thơ lại ùa ngập. Câu thơ như một lời khẳng định về mùa thu riêng có của đất nước Việt Nam.

“Mùa thu mở nước” - Hiếm có một quốc gia nào trên thế giới lại gắn vận mệnh đất nước, gắn vận mệnh dân tộc với mùa. “Mùa” - một khái niệm chỉ khoảng thời gian trong 1 năm được phân chia theo sự thay đổi của thời tiết - lại trở thành một khái niệm dùng để chỉ hành động cao đẹp của con người. Và mùa thu đã trở thành biểu tượng của ý chí độc lập tự do, biểu tượng của khối đoàn kết dân tộc, biểu tượng của sức mạnh quần chúng, biểu tượng của cách mạng thành công. 

Đúng là hiếm có một quốc gia nào mà người dân ở đấy bển bỉ tranh đấu vì khát vọng độc lập. Sự bền bỉ đó đã trở thành “tâm nguyện” của mọi thế hệ người dân. Cả trong thời khắc khó khăn và đau thương nhất thì ngọn lửa của khát vọng độc lập dân tộc cũng không ngừng cháy. 

Dưới ánh nắng thu nhuộm vàng cây trái. Chúng tôi tìm tới ngôi nhà biệt thự ở số 90 phố Thợ Nhuộm, Hà Nội. Những người Việt Nam làm công cho gia đình một viên chức ngành tài chính của thực dân Pháp ở Bắc kỳ thời đó đã được tuyên truyền và được giác ngộ cách mạng. Họ trở thành cơ sở tin cậy của Đảng Cộng sản Đông Dương ở nội thành Hà Nội.

Đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, được khôn khéo bố trí vào ở dưới danh nghĩa là người nhà của những người làm công từ quê lên Hà Nội trọ học. Chính tại đây, đồng chí đã khởi thảo “Bản luận cương chính trị”. Bản luận cương xác định, công cuộc cách mạng Việt Nam và giải phóng đất nước có quá trình phát triển qua các giai đoạn cụ thể, là kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

***  

“Em ơi. Anh đưa em về bên kia sông Đuống”. Câu thơ buồn đến nao nao đẹp của thi sĩ Hoàng Cầm, đọc lên trong tiết thu mà thấy se se. Vẫn khung cảnh làng quê yên bình đến thanh vắng. Vẫn những con người làng quê bình dị đến nhu lành. Nằm bên bờ trái sông Đuống hiền hòa, xã Trung Mầu trước kia thuộc huyện Tiên Du của tỉnh Bắc Ninh.

Ngày 10-3-1945 lá cờ đỏ sao vàng đã phấp phới tung bay khắp đường làng ngõ xóm. Chính cuộc nổi dậy thành công của nhân dân Trung Mầu, một xã ven đô đã thành cơ sở thực tiễn để xứ ủy Bắc kỳ nhanh chóng chỉ đạo các địa phương nắm bắt thời cơ, kịp thời nổi dậy thành lập chính quyền nhân dân.  

Chuyện còn nhắc rằng: Từ cuối những năm 1930 đầu những năm 1940, nơi đây đã có nhiều đồng chí cán bộ cách mạng lui về hoạt động. Xã chính là địa điểm mà Xứ ủy Bắc kỳ lấy làm nơi tổ chức các hoạt động cho công tác tuyên truyền cách mạng. Căn nhà của cụ Nguyễn Xuân Ca bây giờ vẫn y nguyên như hồi nó được cụ Ca xây cất năm 1939.

Một căn nhà ba gian một trái kiểu quê thông thường nhưng bên trong nó đêm đêm những tờ báo cách mạng được âm thầm in ấn. Căn nhà trở thành “Nhà in báo Cờ Độc Lập” do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng lúc đó, làm chủ báo.

Tình cảm đậm đà cùng sự đùm bọc và sẻ chia của người dân Trung Mầu đã giúp những cán bộ cách mạng thời đó vững tin vào công cuộc đấu tranh gian khổ của mình. Một tâm với Đảng, một dạ với quê hương, người dân Trung Mầu hôm nay vẫn thủy chung với Đảng, thủy chung với công cuộc xây dựng và phát triển chung của đất nước.

“Thu đang trải ánh nắng vàng khắp nẻo

Quả đã chín thơm dâng ngọt muôn cành

Anh chậm lại với chính mình để hồn lắng đọng

Nghe tháng năm - Đất nước hiện dáng hình…”

Trong mạch cảm xúc đó, theo làn gió thu thổi se màu lá chúng tôi về thăm làng Vạn Phúc. Làng giờ đã thành một phường thuộc quận Hà Đông. Người dân trong làng giờ cũng đã thành “người Hà Nội”. Người Hà Nội, cái danh xưng đó chẳng làm phai nhòa nét xưa của những người thợ dệt dệt lên những tấm lụa Hà Đông nức tiếng. 

Còn nhớ những năm đất nước chưa được độc lập. Làng lụa Vạn Phúc cần mẫn nép mình bên sông Nhuệ nhưng lại giàu truyền thống cách mạng. Chẳng phải vô tình mà Vạn Phúc từ đầu những năm 1940 đã được chọn làm an toàn khu.

Một an toàn khu bí mật nằm sát nách nội thành Hà Nội nhưng lại rất thuận cho đường lên chiến khu Việt Bắc. Lạ là thế. Và kỳ diệu là thế. Đất và người Vạn Phúc cứ tưởng chỉ biết có chăm chỉ bên khung cửi, miệt mài chuyện tơ chuyện lụa ấy vậy mà lại thấm đẫm tình cảm với Đảng. 

***

Và mùa thu năm 1945 tới nhanh và bừng sáng như một vệt sao băng chói sáng trên bầu trời nước Việt, ứng đúng như tiên đoán của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ 4 năm trước. Năm 1941, Người đặt chân về đến Tổ quốc sau hơn 30 mươi năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, tại hang Pắc Pó người đã nói: “Việt Nam độc lập - 1945”. 

Từ mùa thu ấy, từ núi rừng Tân Trào hừng hực khí thế cách mạng. Cùng với thành công của Hội nghị toàn quốc của Đảng, Quốc dân đại hội đã khai mạc và đã thống nhất quyết định tổng khởi nghĩa. Bản Quân lệnh số 1 được phát đi cùng với các cán bộ tỏa về khắp các địa phương. Những nẻo đường trung du mùa thu mở nước cứ ánh lên niềm hân hoan chưa bao giờ có.

Những ngày giữa tháng 8-1945, tình hình ở Hà Nội có nhiều diễn biến phức tạp. Theo tinh thần đấu tranh triệt để và với thái độ không thỏa hiệp với bất cứ tổ chức nào khác, Thành ủy Hà Nội nhanh chóng nắm chắc mọi diễn biến, trực tiếp đi vào quần chúng để tuyên truyền chủ trương đường lối của Việt minh.

Cuộc mít tinh sáng 19-8-1945 mà Chính phủ thân Nhật do Trần Trọng Kim đứng đầu tổ chức tại Nhà hát Lớn đã mau lẹ chuyển hướng tích cực. Tại đây các cán bộ Việt minh Hà Nội đã len lỏi vào quần chúng nhân dân đang ngơ ngác chưa xác định được mục tiêu của cuộc mít tinh. Họ đã tiến hành “phản mít tinh” thành công.

Lúc đó, cô gái Hà Nội có tên rất đẹp, Nguyễn Khoa Diệu Hồng, nhào tới cướp micro. Cô tranh thủ diễn đàn tuyên truyền đường lối của Việt minh và kêu gọi mọi người ủng hộ và đi theo Việt minh. Như một hiệu ứng được chuẩn bị sẵn quần chúng nhân dân nhất tề đi theo lời kêu gọi của Việt minh và kéo nhau tỏa đi tuần hành khắp các đường phố.

Nhận thấy khả năng thành công của cuộc xuống đường tuần hành là rất lớn. Xứ ủy Bắc kỳ từ trước đó đã họp tại làng Vạn Phúc, chỉ thị cho Thành ủy Hà Nội nhanh chóng nắm bắt diễn biến và hướng cuộc tuần hành đó thành cuộc thị uy biểu dương sức mạnh của quần chúng. Khí thế trào dâng như thác lũ, dưới sự dẫn dắt của các cán bộ Việt minh, cuộc tuần hành nhanh chóng tổ chức thành đội ngũ tiến hành khởi nghĩa cướp chính quyền về tay nhân dân.

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội là cuộc cách mạng có một không hai. Không vũ trang quần chúng. Không tiếng súng và không bạo lực cách mạng. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội là một minh chứng về sức mạnh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó chỉ ra rằng: Một khi lòng dân đã hướng thì không có gì là không thể.

Cách mạng Tháng Tám hay Cách mạng mùa thu năm 1945 đã hoàn thành ước mơ giải phóng đất nước khỏi ách thực dân Pháp của nhân dân ta. Trong vòng 10 ngày lá cờ đỏ sao vàng tung bay khắp thôn cùng ngõ nhỏ. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, công cuộc giải phóng dân tộc với công cuộc thống nhất đất nước được hòa làm một và diễn ra nhanh chóng trọn vẹn. 

***

Dưới nắng chiều của mùa thu Hà Nội. Cảm giác mơn man cứ râm ran trong lòng. Sông Hồng đang cuộn sôi màu nước đỏ, sông vẫn ngàn năm thao thiết chảy xuôi ước vọng vững bền về phía biển lớn. Lại bồi hồi nhớ những ngày nào. Ngày lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Người về để cùng các đồng chí của mình chuẩn bị cho một công việc cực  kỳ trọng đại của đất nước. 

Nằm kín đáo dưới chân đê sông Hồng, ngôi nhà nhỏ chốn quê nghèo của vợ chồng cụ Hai Vẽ ở Phú Thượng được vinh dự là địa điểm đầu tiên của Hà Nội đón Người. Bác đã về đây, giản dị như bao người giản dị. Để rồi thành người vĩ đại trong những người bình dị nhất.

Nếu như ngôi nhà quê của cụ Hai Vẽ có vinh dự là nơi đầu tiên đón Bác Hồ thì ngôi nhà số 48 phố Hàng Ngang lại đi vào trang sách học trò như một nhân chứng lịch sử. Chắc khi xây dựng ngôi nhà này. Và chắc khi chấp thuận lời đề nghị của đồng chí Trường Chinh, ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ không ngờ rằng đó là một vinh hạnh vô biên.

Sẵn lòng yêu nước và đã từ lâu là cơ sở nội thành của Đảng, nên cho dù bận việc làm ăn buôn bán nhưng vợ chồng ông bà Trịnh văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ chẳng ngại ngần nhường toàn bộ phần rộng rãi và trang trọng nhất trên tầng 2 của nhà mình cho vị khách già đặc biệt từ phương xa tới.

Bà Hoàng Thị Minh Hồ xúc động nhớ, chính tại đây bà đã chứng kiến vị khách già đặc biệt có cuộc trò chuyện với mấy người bạn Mỹ. Đó là lần Bác trao đổi với người bạn Mỹ về ý định tiếp thu lời văn trong bản tuyên ngôn của Hoa kỳ vào bản tuyên ngôn độc lập của nước ta do Người soạn thảo. 

“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

***

Thu đang độ sung mãn. Mùa thu đất nước đang trào dâng. Từ trong tâm thức chúng tôi nhận ra rằng:

Mùa Thu - Đó là sự bao hàm mọi giá trị, mọi tinh thần của một dân tộc từng nhiều phen phải đứng lên đánh giặc ngoại xâm. 

Mùa Thu - Đó là sự bao hàm mọi nỗ lực, mọi quyết tâm của một dân tộc từng nhiều phen phải đương đầu trước những thách thức đến từ thiên nhiên.

Mùa Thu - Đó là sự bao hàm mọi hành động, mọi phương châm của một dân tộc từng nhiều phen phải gồng mình vượt qua những thử thách cam go.

Mùa Thu - Đó là điều giản dị nhất để nói về nhân dân. 

Và nhân dân Việt Nam chính là Người làm nên mùa Thu đất nước.