[ẢNH] ‘Thần ưng’ E2- phân nửa sức mạnh của tàu sân bay Mỹ

ANTD.VN - Tàu sân bay Mỹ sẽ không thể phát huy đầy đủ sức mạnh nếu thiếu đi máy bay cảnh báo E-2 Hawkeye. Đây được coi là "thần ưng" trên không, đóng vai trò chỉ huy và cảnh báo cho cả phi đội tiêm kích trên tàu sân bay.

Trên các tàu sân bay Mỹ, ngoài phi đoàn tiêm kích thì một loại khí tài không thể thiếu đó chính là máy bay chỉ huy cảnh báo sớm E-2. Đây được coi là "mắt thần trên không" của hải quân Mỹ.

Mọi động tĩnh của đối phương đều bị chiếc máy bay này thu thập và theo đõi, đồng thời nó đóng vai trò chỉ huy cho các loại vũ khí khác hoạt động, đặc biệt là phi đội tiêm kích hạm F/A-18E/F Super Hornet của hải quân Mỹ.

Mỗi tàu sân bay Mỹ đều có từ 4 đến 6 chiếc máy bay này. Chúng thường chia nhau bay liên tục khi tàu sân bay tác chiến 

Northrop Grumman E-2 Hawkeye là dòng máy bay cảnh báo sớm (AEW) có khả năng hoạt động trên tàu sân bay và trong mọi điều kiện thời tiết.

Nguyên mẫu E-2 được Grumman phát triển từ cuối thập niên 1950 cho hải quân Mỹ, nhằm thay thế dòng E-1 Tracer đã trở nên lạc hậu vào thời điểm đó.

E-2 là mẫu máy bay đầu tiên được chế tạo riêng cho nhiệm vụ cảnh báo sớm, thay vì hoán cải khung thân phi cơ có sẵn như dòng E-3 Sentry cho không quân Mỹ.

Máy bay E-2 dài 17,6 m, sải cánh 24,6 m và cao 5,6 m, phần cánh có thể gấp gọn để tiết kiệm diện tích, phù hợp với không gian chật hẹp trên tàu sân bay.

Máy bay có khối lượng rỗng 18 tấn và khối lượng cất cánh tối đa khoảng 26 tấn.

E-2 đạt tốc độ hành trình 475 km/h, tầm bay tối đa 2.700 km. Máy bay có thể hoạt động liên tục 6 tiếng trên không.

Nhiệm vụ chính của E-2 là nhận dạng, cảnh báo các mối nguy hiểm trên không cho nhóm tác chiến tàu sân bay, sau đó dẫn đường cho các tiêm kích trên hạm như F/A-18 Hornet hay F/A-18 Super Hornet thực hiện nhiệm vụ đánh chặn.

Ngoài ra chúng còn có khả năng dẫn đường và truyền tín hiệu cho máy bay tàng hình F-35B và F-35C chuyên hoạt động trên tàu sân bay.

Được biết các loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 thường sử dụng thuật tín hiệu riêng biệt để tránh bị đối phương phát hiện. Vì thế máy bay E-2 phải lắp bộ thu phát đặc biệt theo thuật tín hiệu này.

Các máy bay E-2 cũng có thể chỉ huy và kiểm soát hoạt động không chiến, do thám, dẫn đường cho lực lượng tìm kiếm cứu nạn và chuyển tiếp thông tin liên lạc.

Độ cao hành trình 7.600 m cho phép mỗi chiếc Hawkeye bao phủ khu vực có bán kính khoảng 300 km, cũng như phát hiện mục tiêu bay sát mặt biển ở ngoài đường chân trời như tiêm kích và tên lửa chống hạm đối phương.

Những mục tiêu ở đường chân trời vốn nằm ngoài khả năng phát hiện của radar trên tàu sân bay sẽ. Trong toàn biên đội, chỉ duy có máy bay E-2 mới có thể phát hiện ra mục tiêu này.

Tổ lái Hawkeye có 5 người, gồm hai phi công ngồi trong khoang lái phía trước, sĩ quan kiểm soát thông tin tác chiến, chuyên viên điều khiển không lưu và sĩ quan vận hành radar ở khoang sau.

Khung thân "thần ưng" làm bằng kim loại nhẹ và được gia cố để phù hợp với hoạt động trên tàu sân bay, trong khi một phần cánh đuôi chế tạo từ vật liệu composite nhằm giảm tín hiệu phản xạ radar.

Càng trước máy bay có thanh kéo để nối với máy phóng của tàu sân bay, còn phía sau lắp móc hãm hình chữ A và đệm đuôi phòng trường hợp va chạm với sàn đáp của hàng không mẫu hạm.

Điểm nổi bật nhất của dòng Hawkeye là đài radar tròn có đường kính 7,3 m phía trên thân, bên trong là tổ hợp radar cảnh giới AN/APS-145 và hệ thống nhận diện địch - ta (IFF) OL-483/AP.

Mỗi hệ thống AN/APS-145 có khả năng phát hiện 2.000 mục tiêu và bám bắt 40 mục tiêu cùng lúc ở khoảng cách trên 300 km.

Hải quân Mỹ cho biết radar này cũng có khả năng kháng nhiễu địa vật và các biện pháp tác chiến điện tử của đối phương.

Ngoài hệ thống radar, những chiếc E-2 cũng được trang bị nhiều tổ hợp thông tin vô tuyến và đường truyền dữ liệu, nhằm đơn giản hóa quá trình vận hành, cũng như kết nối và truyền tham số mục tiêu cho các tiêm kích và phi cơ tác chiến điện tử trong không đoàn tàu sân bay.

Các biến thể E-2 liên tục được chế tạo từ năm 1960, biến nó trở thành dòng phi cơ trên hạm có dây chuyền sản xuất kéo dài nhất lịch sử Mỹ.

Grumman tới nay đã sản xuất hơn 210 chiếc E-2 cho hải quân Mỹ và các đồng minh như Ai Cập, Pháp, Israel, Nhật Bản, Mexico, Singapore...

Phiên bản cải tiến E-2D mới sản xuất hàng loạt từ năm 2013 với những cải tiến sâu rộng nhằm đáp ứng cho nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ trong quá trình hoạt động.