Khi nói về các tàu ngầm nổi tiếng không thể không kể đến tàu ngầm hạt nhân thuộc Đề án 705 Lyra của Liên Xô mà NATO định danh Alfa. Đây là loại tàu ngầm hạt nhân có tốc độ nhanh nhất mà con người từng chế tạo.
Sự ra đời của loại tàu ngầm này cũng khá li kỳ, ban đầu giới quân sự nhận định rằng Liên Xô chậm chân hơn Mỹ về công nghệ tàu ngầm khi bước vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Dù Liên Xô thu được một số loại tàu ngầm tiên tiến nhất của Đức quốc xã vào giai đoạn cuối Thế chiến II, thì Mỹ mới là nước tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động tàu ngầm và chống ngầm từ mặt trận Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.
Sau khi Mỹ làm chủ công nghệ động cơ hạt nhân trang bị trên tàu ngầm với sự ra đời của chiếc USS Nautilus, Liên Xô thúc đẩy quá trình nghiên cứu, chế tạo loại tàu ngầm hiện đại này.
Sau vài thiết kế ban đầu không mấy thành công, Moscow quyết định thực hiện một dự án đầy táo bạo, đó là chế tạo một chiếc tàu ngầm có thể di chuyển nhanh hơn và lặn sâu hơn bất kỳ tàu ngầm nào của NATO, đồng thời sử dụng thiết kế thân vỏ độc đáo, lò phản ứng thế hệ mới và nhiều đột phá về vật liệu chế tạo.
Kết quả của dự án này là sự ra đời của Đề án 705 Lyra (NATO định danh Alfa), lớp tàu ngầm hạt nhân Liên Xô nhanh nhất thế giới, có thể đe dọa lợi thế của hải quân NATO và thách thức tham vọng thống trị đại dương của phương Tây.
Tàu ngầm Lyra có thân vỏ bằng titan, giúp nó đạt tốc độ cao và lặn sâu. Nhờ trang bị các công nghệ tự động hóa tiên tiến, tàu có thủy thủ đoàn ít người hơn so với các tàu ngầm cùng loại, giúp tăng tốc độ phản ứng nhanh của thủy thủ trong tình huống chiến đấu, nhưng lại khiến công tác sửa chữa và bảo trì trên biển trở nên khó khăn hơn.
Để đạt được tốc độ cao, Lyra sử dụng thiết kế lò phản ứng nhanh làm mát bằng chì (LFR) có kích thước nhỏ gọn nhưng vẫn tạo ra nguồn năng lượng rất lớn.
Tuy nhiên, công nghệ này cũng đặt ra nhiều vấn đề về bảo trì kỹ thuật và chỉ một vài trong số đó có thể được khắc phục khi hoạt động trên biển. Ngay cả khi tàu đậu ở căn cứ, hải quân Liên Xô cũng gặp nhiều khó khăn trong việc bảo dưỡng, duy trì hoạt động của tàu ngầm Lyra.
Lớp tàu ngầm này có thể di chuyển với tốc độ 41 knot (gần 76 km/h) khi lặn và độ sâu ít nhất 670 m, sâu hơn nhiều so với bất kỳ tàu ngầm phương Tây nào cho đến tận ngày nay.
Tốc độ và độ sâu lặn kỷ lục cho phép nó tránh được hầu hết các ngư lôi NATO thời đó. Đây được coi là sát thủ một thời trên đại dương.