"Vua voi" đất Tây Nguyên

ANTD.VN - Còn sót lại ở Tây Nguyên nói riêng, Việt Nam nói chung một người sở hữu nhiều voi được thuần dưỡng nhất, đó là ông Đàn Năng Long ở buôn Jun, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, Đắk Lắk. Giờ cả Tây Nguyên chỉ còn lại 43 con voi thì ông Long sở hữu 7 con. Nhiều đời nhà ông Long nổi tiếng về huấn luyện voi và yêu quý voi như báu vật. Những câu chuyện về bảo tồn voi được ông kể ra đầy nhức nhối, nhưng cũng mở ra cả thế giới voi huyền bí. 

Ông Đàn Năng Long chăm chút voi như người thân nên đàn voi của ông không bao giờ phẫn nộ hay sụt cân

Voi cũng có tình nghĩa

Trong nắng chiều mùa thu hanh hao dưới chân Chư Yang Sin hùng vĩ, Đàn Năng Long tạc bóng mình trầm mặc bên vách núi. Xa mà không xưa, bố ông là dũng sĩ săn voi Đàn Năng Nhẫn (dân bản địa gọi là Ama Ku) dắt ông rong ruổi qua những cánh rừng bạt ngàn xanh thẳm, những con suối mát trong cạnh kề buôn làng. Cuộc sống quyện hòa trong không gian đậm đầy nghĩa tình. Mỗi chú voi được thuần dưỡng đều tươi vui với ánh mắt trong veo, thân thiện, hồ hởi và như một thành viên trong gia đình, dòng tộc.

Voi được gọi là ông Tượng. Có việc trọng đại gia chủ và buôn làng phải làm lễ kính báo với ông Tượng. Ông Tượng đau, người nuôi cũng đau theo. Những người nuôi voi, quản voi phải có lòng bao dung, chân thật không mưu mẹo, toan tính, đểu cáng. Những ngày hội, đêm ca, bên bếp lửa bập bùng voi và người cùng soi chiếu vào mắt nhau biểu thị cảm xúc, thấu tỏ lòng nhau. 

Giờ thì khác, mắt voi cũng như mắt người, ừng ực buồn tiếc. Buông tiếng thở dài, Đàn Năng Long thổn thức những lời như rút ra từ đáy sâu gan ruột, rằng: “Khi không coi cái gì là thiêng liêng thì người ta thường hung hãn, nhạt tình, giả dối, màu mè, đối phó với các sinh thể quanh mình. Trước đây, ai cũng tôn kính và xem voi, xem rừng là những thứ thiêng liêng nhất.

Nhưng giờ đây họ phá không thương tiếc. Voi nhà thì bị bóc lột, voi rừng thì bị truy đuổi, bắn giết bởi lòng tham không đáy của con người. Xung đột giữa voi và người ngày càng dữ dội”. Càng đau tiếc, ông Long cùng các quản tượng của mình càng thương yêu, chăm chút 7 ông Tượng mình đang sở hữu hơn. 

Dù không phải chuyện nhà mình nhưng mỗi lần nghe tin đâu đó có voi chết vì kiệt sức, bệnh tật, sự đắng đót cứ dâng trong khóe mắt Đàn Năng Long. Mới vài chục năm trước Đắk Lắk có trên 500 con voi, giờ chỉ còn hơn 40 con, sụt giảm kinh hoàng. Mới nhất và ám ảnh nhất là ông Tượng mang tên Na Liêng của Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Buôn Đôn.

Sau ròng rã tháng ngày phục vụ khách du lịch, Na Liêng chân đi xiêu vẹo, da bám chặt vào xương, ngã quỵ. Người ta hốt hoàng truyền nước, mua thuốc bổ dưỡng cấp tập bơm vào người Na Liêng. Nhưng đã quá muộn, Na Liêng trào ra những giọt lệ buồn cuối cùng rồi vĩnh viễn ra đi vào ngày nắng vã mồ hôi của mùa hè năm 2015. Cũng trong năm đó, ở xứ trăm voi Đắk Lắk, 4 ông Tượng khác cũng vĩnh viễn ra đi. 

Qua bao mùa mưa nắng, voi vẫn tận tụy phục vụ, cháy khát được cặp đôi, được sinh sản cho đến khi sức cạn, tuổi già, da nhăn, chân mỏi. Thế nhưng, rừng bị tàn phá, sông cạn, núi lở, lòng người đổi thay khiến voi có nguy cơ chỉ còn trong ký ức vì chết dần, chết mòn.

Càng bị bóc lột, càng phẫn nộ

Khi con người bắt đầu dùng những chiếc xe tải chuyên chở, những chiếc cưa máy có khả năng hạ sát hàng trăm héc ta rừng nguyên sinh cũng là lúc voi bắt đầu phẫn nộ. Nửa đời người gắn bó với voi, Đàn Năng Long đúc rút: “Voi cũng như người vậy, chẳng khác gì đâu. Khi không gian dành cho voi không bị xâm hại, voi không bị dồn đuổi thì rất hiền hòa với con người. Voi không sợ những bước chân lạ nếu không mang theo tà tâm hủy hoại thiên nhiên. Thức ăn cạn kiệt, môi trường sống không còn, không nổi loạn mới là chuyện lạ”.

Cũng bởi hiểu rõ voi cũng có nhiều nét tâm tính như người nên các nài voi (người chăm và điều khiển voi) của Đàn Năng Long làm việc kiểu cha truyền, con nối. Nhiều gia đình, cuộc đời nối tiếp cuộc đời gắn bó với voi không dời. 

Ông Long bảo: “Voi là loài rất nghĩa tình. Đối đãi với voi tốt thì voi rất ngoan ngoãn và tận tụy. Thậm chí voi còn tự nguyện diễn trò cho người xem, vào tận bàn uống cà phê để vui đùa với khách. Sau vài giờ lao động chở khách đi chơi tôi đều bồi dưỡng cho voi đủ các dưỡng chất bao gồm các loại hoa quả, cỏ cây. Khi voi buồn hay có tâm trạng không vui là cho voi nghỉ ngơi ngay. Không chăm bẵm hàng ngày mà chờ đến khi voi quỵ ngã thì có bơm thuốc bổ tiền tỷ cũng không vực voi dậy được.Voi chỉ phẫn nộ khi bị bóc lột quá mức hoặc cho ăn uống không tương xứng với sức lao động. Các mức độ phẫn nộ của voi cũng theo cung bậc. Giận ít thì lì lợm, giận nhiều thì không tuân theo hiệu lệnh của nài voi. Nhưng sau mỗi lần phẫn nộ mắt voi lại buồn thảm hơn”.

Như để minh chứng cho lời nói của mình, Đàn Năng Long ra hiệu lệnh, cả đàn voi dũng mãnh, cường tráng của ông bước phăm phăm vào quán cà phê với ánh mắt bừng sáng và đưa chiếc vòi uốn éo, nô đùa với khách. 

Đàn Năng Long cũng cho biết, nhiều nơi dốc tiền tỷ bảo tồn mà voi cứ lăn ra chết. Không giản đơn mà làm được điều đó, ngoài đối đãi tốt với voi, phải có bí quyết độc đáo nữa, đó chính là những bài thuốc. Khi không gian tự nhiên còn rộng lớn, voi luôn tự chữa bệnh cho mình. Quan sát tỉ mẩn bằng lòng thương vô hạn trong những chuyến rong ruổi cùng cha đưa voi vào rừng dạo chơi đã giúp Đàn Năng Long thành một bác sĩ đặc biệt.

Thứ lá nào chữa bệnh gì cho voi ông nắm rõ như lòng bàn tay. Có khi người ta bơm chục triệu tiền thuốc vào người voi, voi bệnh nặng thêm nhưng chỉ vài nắm lá của ông Long là hết bệnh. Ví như, voi bị xây xát, nhiễm trùng cần ngay lộc vừng và lá cây trâm bào chế với vài thứ khác. Voi bị u bướu, thương nặng đến nội tạng thì cần tiểu phẫu bằng kinh nghiệm bí truyền và những bài thuốc sạch từ thiên nhiên. 

Nỗi lo voi tuyệt chủng

Đã dốc sức tìm nhiều bài thuốc hay cho voi nhưng trong suốt buổi chuyện trò với tôi, ánh mắt Đàn Năng Long luôn ẩn hiện sự phấp phỏng lo âu vì voi không chịu đẻ nữa. Ông bảo: “Gần 20 năm nay ở Đắk Lắk voi không sinh sản được. Các cấp chính quyền không khẩn cấp đưa ra các phương án hữu hiệu, thiết thực thì voi tuyệt chủng mất thôi. Voi chỉ ân ái mãnh liệt và thụ thai được trong không gian tự nhiên mà giờ đây không còn môi trường tự nhiên để chăn thả, giao phối nên không đẻ được”. 

Dẫu biết là mong manh nhưng vẫn phải hy vọng nên trong không gian quanh hồ Lắk, quanh nhà mình, không cần ai đặt hàng, không cần ai thôi thúc, hàng ngày Đàn Năng Long vẫn cần mẫn nghiên cứu cách để tác hợp cho đàn voi của mình yêu nhau. Phải sắp đôi thật chuẩn thì chúng mới yêu nhau thắm thiết được. Tình yêu và sự ân ái giải phóng mọi u uẩn và sự nóng tính của loài voi. 

Trước khi quyết định se duyên cho các cặp voi ông cũng đã học kinh nghiệm các già làng. Ông Long chia sẻ: “Vài cặp voi tôi se duyên thành công, chúng đều quấn quýt bên nhau nhưng vẫn chưa sinh sản được những chú voi con như ý muốn. Tuy nhiên từ khi có “vợ”, có “chồng” thì tâm tính những chú voi này hiền hòa hẳn. Hy vọng một ngày không xa, chúng sẽ đồng loạt cho ra đời những chú voi con để khát vọng duy trì, trường tồn voi Tây Nguyên không là viễn cảnh”. 

Những chia sẻ của ông Long trước lúc chia tay làm tôi sực nhớ đến đôi dòng tâm sự tràn ngập chua xót của già làng Y Linh ở Buôn Đôn. Đó là một chiều mưa xối xả, những ngọn gió thốc qua các quả núi trơ trọi ập vào buôn làng từng dòng nước đỏ ối.

Già làng Y Linh trăn trở: “Đi vòng quanh thế giới để tìm cách bảo tồn voi cũng được, hàng chục chiếc xe với các ông tiến sỹ mũ áo xênh xang về đây nghiên cứu cũng được. Nhưng cấp bách nhất phải là khoanh vùng, tạo ra một không gian thiên nhiên rộng mở với nhiều cây rừng kèm theo những người bảo vệ tận tâm nếu không một sơ sểnh nhỏ là voi bị chặt ngà, cắt đuôi, vặt lông ngay, còn đâu sức mà ân ái sinh sản nữa”. 

Chi tiền tỷ, voi vẫn chết liên tục

Để voi không tuyệt chủng, năm 2011, tỉnh Đắk Lắk đã thành lập Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk. Ngay sau đó tỉnh này cũng đã phê duyệt “Dự án khẩn cấp Bảo tồn voi tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020” với tổng kinh phí 85 tỷ đồng. Tinh thần chung của dự án nhằm duy trì, bảo tồn cả voi hoang dã lẫn voi nhà, giảm xung đột giữa voi với người. Thế nhưng voi ở Đắk Lắk vẫn liên tục chết.