Vọng vang tiếng chuông Trấn Vũ

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Năm 1010, khi định đô ở Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã phong cho thần Chân Vũ là Huyền Thiên Trấn Vũ Chân quán coi giữ mặt thành phía Bắc. Năm 1012 vua cho xây miếu thờ Trấn Vũ ở gần thành (không rõ địa điểm nào), “Đại Việt sử ký” chỉ ghi ở gần đầm Thân Cáo. Năm 1474, vua Lê Thánh Tông sai tu tạo lại Hoàng thành, mở rộng diện tích, xây Trấn Vũ quán ở bên ngoài tường thành tức là vị trí hiện nay.
Sân đền Quán Thánh

Sân đền Quán Thánh

Gọi là Trấn Vũ quán vì có tượng đúc hình đạo sỹ và nơi đây trở thành trung tâm hành lễ của Đạo giáo. Thời thịnh của thi cử Nho học, sỹ tử vào đây xin thơ thánh giáng cầu mộng. Những chuyện mộng mị ấy được chép thành một pho sách có tên “Trấn Vũ thần mộng ký”. Ngoài tên Trấn Vũ thì người dân quen gọi là đền Quán Thánh với nghĩa “quán của Thánh”.

Vị thần hộ quốc, an dân

Trấn Vũ là tên gọi của thần Chân Vũ, người Việt còn gọi là Trấn Võ, là một trong những vị thần được thờ phụng phổ biến tại Trung Quốc và các nước Á Đông. Vị thần này tượng trưng cho sao Bắc cực và là một vị thần lớn của đạo Giáo thống trị phương Bắc, kiêm quản lý các loài thủy tộc nên cũng được coi là thủy thần hay hải thần. Theo hầu Chân Vũ là 2 tướng quy, xà (tượng trưng cho sự trường tồn và sức mạnh) và ngũ long thần tướng.

Tương truyền Huyền Thiên Trấn Vũ là vị thiên thần trấn Bắc môn thiên phủ vào thời nhà Tùy (năm 589-600) giáng sinh đầu thai làm con vua nước Tĩnh Lạc (Trung Quốc). Lớn lên, Huyền Thiên bỏ ngôi hoàng tử vào tu ở núi Vũ Dương (Trung Quốc). Sau 42 năm tu luyện, Huyền Thiên đắc đạo sang du ngoạn nước ta, đến sông Nhị Hà, làng Long Đỗ (Hà Nội ngày nay) vào tu đạo tại một ngôi đền bên hồ Tây, dùng đạo pháp khử trừ các loại yêu quái để cứu dân rồi hóa thần. Người dân nhớ ơn đã lập đền thờ tại phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương gọi là Huyền Thiên Quan (54 phố Hàng Khoai hiện nay).

Có rất nhiều thuyết khác nhau, nhưng Huyền Thiên Trấn Vũ không phải là vị thần ngoại quốc chen chân vào truyền thuyết nước ta mà là thần của người Việt. Truyền thuyết về Huyền Thiên tại làng Ngọc Trì (huyện Gia Lâm) kể rằng: “Ngài giáng sinh vào vương quốc Tĩnh Lạc, Hoàng hậu đặt tên là Huyền Nguyên. Năm 14 tuổi ngài vào núi Vũ Đương tu hành, tới năm 42 tuổi thì đắc đạo”. Truyền thuyết này cũng có nét tương đồng với câu chuyện về Huyền Vũ của Trung Hoa.

Theo truyền thuyết Việt Nam, Trấn Vũ là vị thần ở núi Sái (nay thuộc làng Thụy Lôi, huyện Đông Anh) có công giúp An Dương Vương trừ tà ma quấy rối việc xây thành Cổ Loa. Ông từng du ngoạn hồ Tây và trừ hồ ly tinh 9 đuôi lẩn quất ở núi đá bên cạnh hồ này. Truyền thuyết cũng kể, đời Hùng Vương thứ XIV, Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương Bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái, trừ cáo 9 đuôi ở Tây Hồ.Theo tài liệu của Ban Quản lý đền, còn một truyền thuyết nữa liên quan đến Huyền Thiên Trấn Vũ. Đó là vào đời Hùng Vương, tại rừng Thiết Lâm, làng Long Đỗ có hồ ly tinh 9 đuôi làm hại dân.

Ngọc Hoàng sai thần Huyền Thiên hạ giáng, dùng phép thuật giết hồ ly tinh, rồi cả khu Thiết Lâm sụp xuống thành hồ (tức là hồ Tây ngày nay). Vì thế, vua Lý Thái Tổ sau khi xây thành Thăng Long cho lập đền thờ Huyền Thiên ở phía Tây Bắc thành để trấn yêu quái. Ngoài ra, tương truyền An Dương Vương xây thành cứ ngày đắp, đêm lại bị đổ vì yêu ma Bạch Kê tinh phá hoại. Ban ngày Bạch Kê tinh ẩn ở núi Thất Diệu, đêm lại xuất hiện. Vua không có cách nào trừ được bèn lập đàn cầu khẩn, được Huyền Thiên Trấn Vũ sai thần Kim Quy hiện ra mách bảo kế giết Bạch Kê tinh nên thành ốc mới xây xong. Tưởng nhớ công đức của Huyền Thiên, vua đã cho xây đền trên đỉnh núi Thất Diệu để thờ. Đây cũng là nơi Huyền Thiên đã tu luyện và cũng được gọi là Vũ Đương Sơn.

Từ sân đền nhìn vào nhà Đại Bái đền Quán Thánh

Từ sân đền nhìn vào nhà Đại Bái đền Quán Thánh

Những giá trị trường tồn

Đền Trấn Vũ trải qua nhiều lần tu sửa và có 2 lần trùng tu lớn. Đời vua Lê Hy Tông (1677), xây dựng Trấn Vũ quán với quy mô lớn. Chúa Trịnh Tạc cho đúc tượng đồng thay tượng gỗ đã cũ. Tượng cao gần 4 mét, không đội mũ, tóc xõa đằng sau, mặc áo đạo sỹ, chân đi đất, tay trái giơ lên bắt quyết trừ tà, tay phải chống kiếm lên lưng một con rùa, lưỡi kiếm có rắn leo xung quanh. Người thợ đúc tượng Trấn Vũ là Trùm Trọng cũng có tượng thờ ở bên trái đền. Tuy nhiên hội đồng dòng họ Vũ tộc đại tông (huyện Vụ Bản, Nam Định) khẳng định đây là tượng của cụ tổ Vũ Công Chấn (1618 - 1699), người được vua Lê Hy Tông giao xây đền.

Truyền thuyết Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn được thần báo mộng và chỉ đường vào Lam Sơn theo Lê Lợi kháng chiến chống giặc Minh cũng từ đây mà ra. Năm 1768 chúa Trịnh Sâm cho sửa đền và ghi thêm vào tấm bia do Đặng Công Chất soạn. Khi vua Minh Mạng ra Bắc năm 1824 đến thăm đền đã sai đục hết những dấu vết của họ Trịnh trên bia. Chiến tranh cuối thế kỷ XVIII đã làm hỏng nát nhiều chỗ nên năm 1856 Tri huyện Thọ Xương là Phan Huy Kiên đứng ra quyên tiền tu sửa đền.

Ông cho làm rộng thêm, xây nội điện và tiền đường, lò thiêu hương, tam quan, gác chuông, hành lang tả hữu vu, tô thêm tượng đặt ở hậu đường là tượng Lã Tổ, Văn Xương, Quan Đế. Trước đó, năm 1842 vua Thiệu Trị ra Bắc đến thăm đền có cúng một biển đồng thếp vàng. Nhà vua và những người đi theo mỗi người cúng một đồng tiền vàng để đúc thành một chiếc vòng đeo vào tay tượng. Có một thời gian Pháp cho bọn thổ phỉ cờ vàng của Jean Dupuis đóng quân ở Trấn Vũ và khu vực xung quanh, không biết bọn họ có lấy đồ quý trong đền không?

Đền Quán Thánh xưa

Đền Quán Thánh xưa

Năm 1893, Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải cho sửa sang đền như ngày nay. Ngoài cổng xây thêm 4 cột trụ, tượng thần được nâng lên trên bệ đá cao 1,2 mét. Hôm khánh thành, Hoàng Cao Khải tổ chức linh đình mời quan Tây, quan ta. Báo “Tương lai Bắc Kỳ” năm 1893 viết là họ uống rượu sâm-panh và nhảy đầm. Nhân sự kiện này Hoàng Cao Khải tổ chức cuộc thi thơ để lôi kéo sỹ phu Bắc Hà. Trong cuốn “Bóng nước hồ Gươm” của Chu Thiên kể rất chi tiết chuyện này. Có một bài thơ không thi mà dán ở cổng đền trong đó có câu:

Truyền kỳ Trấn Vũ bấy lâu nay

Muốn đến trước thần hỏi câu này

Trừ hại cứu dân được mấy việc?

Sói lang chẳng giết, giết cáo cầy...

Trong Trấn Vũ quán còn có một quả chuông cao 1,5m đúc năm 1677 cùng với 5 pho tượng treo ở gác tam quan. Thời đó nhà thưa nên khi đánh chuông, tiếng của nó vang khắp thành Thăng Long vì thế mới có câu ca dao:

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương

Tuy nhiên trong gia phả họ Dương thì đây là bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê sáng tác sau khi từ giã quan trường triều vua Tự Đức về quê. Câu đầu của bài thơ là “Phất phơ ngọn trúc trăng tà”. Chuyện này được viết trong tập “Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm” (NXB Văn học 1995). Đền cũng có một chiếc khánh đồng lớn khắc bài minh cổ. Đôi voi chầu trong sân do một người giàu có ở Hà Nội cung tiến năm 1941. Những nơi khác cũng thờ thần Trấn Vũ là đền Huyền Thiên phố Hàng Khoai; thôn Ngọc Trì, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm (nay thuộc tổ 5, phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội) cũng có một bức tượng Trấn Vũ bằng đồng.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến