Vợ mang thai, sinh con với người khác, chồng có được từ chối quyền làm cha?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Thời gian qua có khá nhiều trường hợp vợ chồng chung sống, sinh con được một thời gian người chồng mới phát hiện đứa trẻ đó không phải con mình như vụ thầy lang chữa hiếm muộn ở Bắc Giang. Vậy trong hoàn cảnh này, người chồng có được từ chối quyền làm cha?

Về việc xác định cha, mẹ cho con, Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày, kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định như kết luận Giám định ADN…

Khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình cũng nêu rõ, người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.

Như vậy, mọi đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân đều được pháp luật công nhận là con chung của cả hai vợ chồng.

Nếu người chồng không thừa nhận con thì phải làm đơn gửi đến TAND cấp huyện, nơi mình đang thường trú. Kèm theo đó, người chồng phải cung cấp các chứng cứ cho Tòa án để xem xét việc từ chối nhận con là có cơ sở.

Nếu trước khi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ mà người chồng đã có Bản án/ Quyết định của Tòa án về việc mình không phải là cha đứa trẻ và Bản án/ Quyết định đó đã có hiệu lực, thì người vợ không được lấy tên chồng là cha đứa trẻ khi chưa được sự đồng ý của người chồng.

Trong trường hợp người vợ đã lấy tên chồng với tư cách là cha đứa trẻ để đi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ và bản chính Giấy khai sinh của đứa trẻ đã ghi tên người chồng, nhưng sau đó, tòa án đã ra Bản án/ Quyết định về việc người chồng không phải là cha đứa trẻ và Bản án/ Quyết định đó đã có hiệu lực, người chồng có thể làm thủ tục thay đổi hộ tịch theo quy định tại khoản 1, Điều 41, Nghị định 158/2005/NĐ-CP.

Khi đó, người chồng sẽ xuất trình bản chính Giấy khai sinh của đứa trẻ, Bản án/ Quyết định của tòa án về việc mình không phải là cha đứa trẻ và nộp Tờ khai theo mẫu quy định tới UBND cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho đứa trẻ trước đây để giải quyết việc thay đổi hộ tịch trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của đứa trẻ.

Trường hợp người chồng có yêu cầu xin ly hôn, theo Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn; Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, ngay cả khi phát hiện đứa trẻ không phải là con mình, người chồng vẫn không có quyền yêu cầu ly hôn nếu vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.