Vỉa hè của phố

ANTĐ - T ừ xa xưa, Hà Nội đã có phố và tất nhiên không hẳn các phố đã có vỉa hè. Theo cuốn “Thượng Kinh ký sự” của cụ Hải Thượng Lãn Ông thì Thăng Long thời chúa Trịnh vỉa hè cũng đã có, nhưng ngắn ngủi cập kênh và rải rác. Lòng đường phố lớn ở thời ấy thường lát đá hộc, đại loại để cho voi ngựa đi được. Còn vỉa hè chỉ là những doi đất cứng, được san phẳng chắc, sát vào cửa nhà. Vỉa hè Hà Nội giống như bây giờ là do người Pháp, đặc biệt là công của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, một ông Tây thực dân khá tham lam nhưng yêu sự ngăn nắp.

 “Khi tôi đến Hà Nội vào tháng 3-1897 thì khu phố của người An Nam vốn là những cửa hàng lấn ra tới tận đường. Phố xá không có vỉa hè và chen chúc những người và người. Đó là những thứ đích thực của Hà Nội”. Paul Doumer bắt tòa thị chính phải lát vỉa hè ở những phố Tây trước tiên như Gambetta (Trần Hưng Đạo), Carreau (Lý Thường Kiệt), Bobillot (Lê Thánh Tông)… bằng loại gạch vuông rạch khía viền bờ bằng đá đẽo.

Đều đặn cứ hơn hai chục mét là đủ loại cây trồng, nhiều loài không xuất xứ bản địa như xà cừ, long não, sao, cơm nguội… Cho đến giờ, đây vẫn là những vỉa phố lãng mạn tuyệt vời đẹp nhất của Hà Nội. Chỉ cần chiều muộn đi dạo trên đấy thôi, tự nhiên thấy thanh thản thăng hoa, vừa quý phái vừa sang trọng. 

Thời vất vả bao cấp, khi chưa có internet, chưa có các trò chơi điện tử, đến xem ti vi cũng là thứ xa xỉ hiếm thì vỉa hè là thiên đường của bọn nhóc được sinh ra từ phố. Những đứa con gái hoặc chơi nhảy dây chun, chơi ô ăn quan, chơi chuyền. Những đứa con trai hoặc chơi bắn bi, hoặc chơi khăng, chơi đáo (hai trò này hình như được đem về từ nơi sơ tán). Ngày ấy, đất nước gian lao, thiên tai địch họa nên những người lớn bận lắm.

Không kể thời chiến khắc nghiệt bom đạn, mà ngay cả thời hậu chiến an lành hòa bình thì người lớn cũng có không biết bao nhiêu công việc đòi hỏi sự tận tụy, tử tế. Hầu hết bọn trẻ con đều được thả rông ra đường lê la nghịch ngợm, hiếm hoi mới có đứa bị nhốt trong nhà. Có gì khó hiểu đâu khi vỉa phố là nơi dung dưỡng tuổi thơ của chúng. Đương nhiên lúc đó, vỉa hè chưa hề có khái niệm “mặt tiền” nồng nặc mùi tính toán.

Trừ vài phố đã có truyền thống buôn bán tấp nập như Hàng Đào, Hàng Ngang…, thì đa phần mọi người đều thích bình yên sinh hoạt sau cánh cửa nhà với chế độ tem phiếu. Thậm chí khi có tiêu chuẩn phân nhà thì những người có đôi chút chức vụ với bản chất rụt rè lương thiện từ thời đại, luôn chọn những ngôi nhà bình dị bên trong, “cho nó đỡ ồn”. Nó khác hẳn ngày nay, chỉ vì chưa đầy nửa mét vuông mặt tiền có vỉa hè mà hàng xóm tắt lửa tối đèn sẵn sàng kiện nhau. 

Có phải vậy chăng mà vỉa hè ở thời bao cấp luôn thoáng đãng mênh mông rộng. Ở đấy, trò chơi thời thượng số một là chơi bi. Con giai thì bi bắn, con gái thì bi gẩy. Mỗi một thằng nhóc mặc quần “viện trợ” thủng đít thường sở hữu một khoảng vỉa phố của riêng mình. Chúng nó thuộc từng vệt nứt của từng xăng ti mét vuông trên từng viên gạch.

Ngoài nghệ thuật cầm rồi bắn bi, thì độ nẩy quen thuộc của viên bi ở mặt hè luôn quyết định sự thắng bại. Được chơi trên sân nhà hiển nhiên là lợi thế. Ở phố Nhà Chung có thằng Đạt “điếc” bắn bi “mả” vô song. Trước mùa Xuân 1975, thằng Đạt xung phong đi bộ đội, không ngẫu nhiên trở thành lính bắn tỉa khét tiếng. Nó hy sinh trong một lần cận chiến dữ dội lúc đang bảo vệ biên giới phía Tây Nam. Đồng đội những khi thắp hương nhớ nó, thường thả vào bát hương của người lính phố cổ ấy vài hòn bi ve.

Hà Nội hôm nay vẫn có vỉa hè và vỉa hè hôm nay sao khác xưa nhiều quá. Nó nhốn nháo dung tục hơn, nó quyết liệt thị trường hơn. Nhan nhản khắp các vỉa phố là các biển đề ngô nghê “vỉa hè dành cho người đi bộ”. Bắn bi hay trốn tìm ở đâu, khi đi bộ còn khó. Vỉa hè Hà Nội chỉ phảng phất trở lại là chính nó lúc vào những ngày nghỉ lễ. Hàng quán bớt đi, xe máy bớt đi, quanh hồ Gươm hay hồ Thiền Quang, nhiều cặp đôi đang yêu nhau, chầm chậm đi dạo.

Và đâu đó ở những phố có vỉa hè rộng, từng đám trẻ con buông bỏ không cầm iPad nữa, ùa nhau chạy ra đường chơi đuổi bắt.

Tin đọc nhiều