Từ cơ sở bào chế vaccine Thái Hà đến Viện Pasteur Hà Nội thế kỷ trước

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc

ANTD.VN - Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, dịch bệnh ở Việt Nam xuất hiện lần đầu vào năm 1100, triều vua Lý Nhân Tông. Từ đó cho đến năm 1789 có 9 lần xảy ra dịch. Khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn cũng đã xảy ra dịch đậu mùa, khiến chúa Trịnh phải cho rút quân ra Bắc. Tuy nhiên, sử không hề chép người xưa chữa dịch bệnh thế nào.

Vườn hoa mang tên Yersin để ghi nhận những cống hiến của bác sỹ, nhà vi khuẩn học người Pháp

Vườn hoa mang tên Yersin để ghi nhận những cống hiến của bác sỹ, nhà vi khuẩn học người Pháp

Dịch bệnh xưa

Dịch bệnh được lịch sử ghi lại rất sơ lược, trong số 9 trận dịch thì có 5 trận dịch lây lan trên phạm vi rất rộng còn lại xảy ra ở phạm vi địa phương. Lớn nhất và nguy hiểm là trận dịch xảy ra vào tháng 10-1757 ở một số vùng thuộc trấn Sơn Tây. Theo Sách “Đại Nam thực lục chính biên” từ năm 1820-1895, Việt Nam xảy ra 70 trận dịch bệnh. Tháng 6-1820 dịch bắt đầu từ một số tỉnh miền Tây Nam bộ sau đó lan ra toàn quốc làm chết 206.835 người, trong đó thi hào Nguyễn Du. Từ 11-1887 đến tháng 6-1888, trận dịch đậu mùa hoành hành ở Quảng Ngãi làm chết 13.934 người. Năm 1888, ở Hà Nội xảy ra một trận dịch tả rất rộng khiến nhiều người bị chết.

Dịch đã lây lan sang cả binh lính Pháp đóng quân trong thành và khu vực Đồn Thủy. Để ngăn chặn, chỉ huy quân đội Pháp đã cách ly số binh lính bị bệnh, đưa họ vào khu vực trường thi Hương (nay là Thư viện Quốc gia, phố Tràng Thi) để chữa trị. Xưa không biết là chữa trị bằng thuốc gì chỉ thấy “Đại Nam thực lục chính biên” chép: “Vua lấy bạch đậu khấu trong kho và phương thuốc chữa dịch sai người ban cấp”. Sách cũng chép vua mời các bác sỹ Pháp chủng đậu ngừa bệnh đậu mùa cho con trẻ. Tuy nhiên qua các bài thuốc dân gian còn lưu truyền đến ngày nay thì chữa dịch tả và kiết lỵ bằng búp ổi, thậm chí cả bằng thuốc phiện hay xông bằng quả bồ kết.

Viện Pasteur Hà Nội những năm 1927-1928 trong quá trình hoàn thiện

Viện Pasteur Hà Nội những năm 1927-1928 trong quá trình hoàn thiện

Viện bào chế vaccine Thái Hà

Lo sợ binh lính sẽ bị nhiễm dịch bệnh ở xứ nhiệt đới, năm 1891, Chính phủ Pháp đã quyết định thành lập một cơ sở nghiên cứu vi trùng và bào chế vaccine ở Sài Gòn (sau đổi tên thành Viện Pasteur Sài Gòn). Tuy nhiên, việc vận chuyển vaccine từ Sài Gòn ra Hà Nội mất rất nhiều thời gian và khó khăn vì bảo quản vaccine rất phức tạp. Điều đó gây bất lợi cho chữa bệnh và ngăn chặn dịch nên năm 1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, trước khi kết thúc nhiệm kỳ đã mời bác sỹ Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường y. Và École de Médecine indigène (trường Y bản xứ hay trường Y Hà Nội) ra đời nằm trên đất của ấp Thái Hà.

Ngoài đào tạo chuyên môn cho người Việt, trường còn có một bệnh viện nhỏ cho sinh viên thực tập, có cơ sở nghiên cứu vi trùng và bào chế vaccine. Cùng với Viện Pasteur Sài Gòn, cơ sở ở Thái Hà cũng có nhiệm vụ nghiên cứu vaccine phòng tả, thương hàn, bệnh do ký sinh trùng gây ra, đậu mùa, chó dại. Ngoài các bác sỹ người Pháp, trường Y Hà Nội đã mở các lớp đào tạo nhân viên ở phòng thí nghiệm dịch tễ là người Việt. Khi trường có trụ sở mới ở phố Bobillot (nay là Lê Thánh Tông) thì cơ sở ở Thái Hà trở thành Viện bào chế thuốc tiêm chủng (Institut vaccinogène).

Từ đầu thế kỷ 20 cho đến khi Viện Pasteur Hà Nội (nay là Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương) khánh thành năm 1925, Viện bào chế Thái Hà do bác sỹ Gauducheau làm Giám đốc và nhân viên phần lớn là người Việt. Ở đây có phòng thí nghiệm vi trùng và mổ xác súc vật, có xưởng bào chế. Viện đã bào chế thành công vaccine đậu mùa và dại cung cấp cho toàn xứ Đông Dương. Không chỉ có công lập ra trường Y Hà Nội, bác sỹ Yersin còn nghiên cứu thành công vaccine dịch hạch.

Vì sao chính quyền lại cho đặt trường y ở ấp Thái Hà, nơi rất xa với trung tâm thành phố? Ấp Thái Hà do Kinh lược xứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải lập ra năm 1893. Một phần của khu đất này dành cho quan lại ở các tỉnh xây biệt thự, một phần dành cho công chức cao cấp của Hà Nội muốn có chỗ ở tĩnh mịch. Một phần làm đất công của thành phố và phần còn lại thuộc sở hữu của Hoàng Cao Khải. Vì có cơ sở nghiên cứu vi trùng nên Yersin đã chọn Thái Hà, khu đất xa trung tâm để tránh gây ra những hậu quả tiêu cực khi thí nghiệm cho dân chúng.

Viện Pasteur Hà Nội nay là Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương

Viện Pasteur Hà Nội nay là Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương

Viện Pasteur Hà Nội

Sau khi Viện Pasteur Hà Nội chuyển về trụ sở mới ở phía đông phố Lò Đúc thì Viện bào chế thuốc tiêm chủng ở Thái Hà đóng cửa. Viện Pasteur Hà Nội với diện tích rộng lớn, trang thiết bị đầy đủ cùng đội ngũ bác sỹ nhân viên có chuyên môn cao đã nghiên cứu thành công nhiều loại vaccine khống chế được nhiều dịch bệnh ở Hà Nội nói riêng và trên toàn xứ Đông Dương nói chung.

Khi Pháp rút khỏi Đông Dương năm 1954, theo điều 3 của Hiệp định Genève, tài sản của chính phủ Pháp nếu Việt Nam muốn sử dụng sẽ phải trả tiền. Trong khi hai chính phủ chưa thỏa thuận xong nên cơ sở nghiên cứu dịch tễ từ Việt Bắc chuyển về phải đóng tạm ở số 5 phố Quang Trung. Nơi đây trước năm 1954 là khu nội trú của trường dòng Saint Marie.

Từ năm 1957 đến 1959, ở miền Bắc, bệnh bại liệt ở trẻ em phát thành dịch, đỉnh cao là năm 1959, tỷ lệ tử vong lên đến 13%. Trước tình trạng đáng báo động đó, trong điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế nhưng bác sỹ Hoàng Thủy Nguyên đã lần đầu tiên phân loại và định lập được virus cúm và virus bại liệt. Hoàng Thủy Nguyên tốt nghiệp bác sỹ năm 1955, ông là con trai của bác sỹ chuyên ngành vi trùng Hoàng Tích Trí, cụ giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế từ năm 1946-1958.

Từ những thành công ban đầu, ông đã thành lập phòng thí nghiệm virus và xây dựng nên ngành virus học ở Việt Nam. Ông được Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch cử sang Liên Xô để tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine bại liệt Sabin ở dạng uống. Vaccine Sabin phòng chống bại liệt do TS Albert Sabin (người Mỹ gốc Ba Lan) nghiên cứu thành công vào khoảng những năm 1954-1955.

Sau 3 tháng ở Liên Xô trở về, năm 1960, bác sỹ Hoàng Thủy Nguyên nhanh chóng thành lập một nhóm những nhà khoa học để triển khai sản xuất vaccine bại liệt này tại Việt Nam. Lúc đó, đất nước rất khó khăn, nhóm nghiên cứu thiếu thốn cả về trang thiết bị lẫn bác sỹ có chuyên môn. Nhưng vì sự cấp bách chống dịch nên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cấp riêng cho ông khoản kinh phí là 2.000 bảng Anh một năm để nghiên cứu. Số tiền đó dùng để mua hóa chất và dụng cụ thí nghiệm từ Hồng Kông và một chiếc máy đông khô của Tây Đức.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến

Loại vaccine này được sản xuất trên tế bào thận của loài khỉ Vàng (tên khoa học là Macaca mutala). Tuy nhiên, thời điểm đó ở Việt Nam chưa có cơ sở nuôi loài khỉ vì thế nhóm nghiên cứu của bác sỹ Hoàng Thủy Nguyên đã quyết định thành lập ngay khu nuôi khỉ Vàng tại đảo Rều nằm giữa vịnh Bái Tử Long (Quảng Ninh). Vượt qua mọi khó khăn, đến năm 1962, phòng thí nghiệm virus của bác sỹ Hoàng Thủy Nguyên đã sản xuất được 2 triệu liều vaccine Sabin góp phần tích cực ngăn chặn được dịch bại liệt.

Sau khi đạt được thỏa thuận với chính phủ Pháp, cơ sở ở số 5 Quang Trung chuyển về Viện Pasteur Hà Nội. Từ đây nhiều loại vaccine do viện sáng chế đã ra đời phục vụ cho tiêm chủng toàn miền Bắc và sau năm 1975 cung cấp cho cả nước.

Tin đọc nhiều