Phố sách Hàng Gai xưa

ANTD.VN - In mộc bản xuất hiện ở Thăng Long khá sớm, gắn liền với khắc in những bộ kinh sách truyền bá Phật giáo khi đạo Phật thịnh hành ở Việt Nam thời Lý -Trần. Song phải đợi đến triều Lê thì nghề in ở Đại Việt mới có sự thay đổi rõ rệt.

Giao lộ phố Hàng Đào - Hàng Gai - Cầu Gỗ xưa

Ban đầu phạm vi in ấn hết sức hạn hẹp, chỉ trong khu vực triều đình và nhà chùa. Thời Lê, kinh sách đạo Phật, đạo Lão cũng như thi thư chỉ được in khi triều đình cho phép. Thời Nguyễn, Minh Mạng là một ông vua sùng đạo Nho, ham đọc sách, khuyến khích viết sách nhưng lại kiểm soát hết sức chặt chẽ in ấn. Ông sợ lập ngôn hay thi thư của sỹ phu Bắc Hà vốn vọng Lê không ưa triều Nguyễn được in tự do rồi phổ biến rộng rãi trong dân chúng sẽ nguy hại đến triều đình.

Tuy nhiên, đến đời vua Thiệu Trị và Tự Đức, nghề in ở Hà Nội rất phát triển ở phố Hàng Gai. Cho đến khi chấm dứt thi Hương ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1918, các phố Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Thiếc và Hàng Đào có 21 cơ sở in mộc bản nhưng riêng Hàng Gai chiếm tới hai phần ba. Nổi tiếng nhất Hàng Gai là các nhà in: Liễu Văn đường; Tụ Văn đường; Phúc Văn đường; Đồng Văn đường; Quảng Thịnh đường; Cẩm Văn đường; Quan Văn đường, rồi mới tới Áng Hiên hiệu ở phố Hàng Đào. 

Muốn in một cuốn sách phải có người viết hay mượn người viết đúng như cách mà nhà in muốn trình bày. Sau đó đưa cho thợ Liễu Chàng khắc. Thợ khắc phải dùng gỗ thị vì gỗ này mịn, dẻo và bền. Miếng gỗ được đánh nhẵn hai mặt rồi dùng cơm nát dán trái bản viết vào, lại đánh cho giấy mỏng đi để nét chữ thật rõ mới dùng dao sắc nhọn khắc. Mỗi bản gỗ chỉ in được 4 trang.

In thử nếu có chữ sai thì phải đục đi chêm mẩu gỗ vào khắc lại. Có những bộ sách rất nhiều quyển nên số bản khắc rất lớn và đó cũng chính là vốn, là thời gian nên không phải ai cũng có thể làm được. Khi in, thợ để  bản in lên đệm rơm, dùng chổi con quét một lượt mực vừa phải, đặt tờ giấy lên, lấy xơ mướp đã bôi mỡ xoa thật đều và đều tay là xong một bản.

Giấy in giấy có 2 loại: giấy bản và moi do làng Bưởi cung cấp. Giấy bản trong và  trắng để in sách học, giấy moi vẫn còn các vết vỏ gió để in truyện thường. Có hai khổ quen dùng, sách truyện khổ 16x20cm còn sách học khổ 20x30cm. Ấn phẩm có nhiều loại, sách kinh do các chùa đặt, sách dành cho sĩ tử học thi, truyện dân gian, truyện Tàu, các bộ sử hay sách thuốc. Thường mỗi bản sách chỉ in tối đa 300 quyển, bán hết mới lôi bản khắc ra in tiếp. Để sách không có lỗi, nhà in nào cũng rước nhiều thầy đồ hay chữ soát thật kỹ bản in. Nói chung sách của các nhà in ở Hàng Gai  không bao giờ phải đính chính. 

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến

Các nhà Nho xưa không nghĩ đến chuyện in sách, họ chỉ lo lập ngôn tức là  nói những lời sâu sắc có ý nghĩa cho đời nhưng thấy có người in văn của mình thì cũng thích nên nhà in nghe nói ai có bản văn hay, chỉ đem cái lễ “chè rượu” đến xin là được. Với truyện dân gian thì in tự do. Nhưng tùy theo nhà in, có nhà trình bày như bản cổ, có nhà nhờ các ông cử, ông tú nhuận sắc để người đọc dễ hiểu hơn.

Các truyện chữ Nôm có: Lý Công; Phương Hoa; Phạm Công - Cúc Hoa; Thạch Sanh; Lưu Bình Dương Lễ; Bướm Hoa; Trê Cóc… Còn truyện Tàu khá nhiều nhưng cứ in đi in lại. Riêng bản Kiều có rất nhiều tên khác nhau: Kim Vân Kiều tân truyện; Đoạn trường tân thanh; Kiều truyện; Kiều lục; Kiều thơ; Kiều phú…

Đầu thế kỷ XX, chế độ khoa cử Việt Nam có sự thay đổi lớn: Bỏ kinh nghĩa thơ phú chuyển sang văn sách, luận và thêm cả một phần quốc ngữ. Chữ quốc ngữ lan rộng, ai ai cũng học vì sợ mình lạc hậu, các nhà in phố Hàng Gai nhanh chóng xoay theo thời cuộc. 

“Chữ quốc ngữ là hồn của nước

Phải đem ra tính trước dân ta

Sách Âu Mỹ, sách China

Chữ kia chữ nọ dịch ra cho tường”. 

Những câu thơ trên cho thấy chữ quốc ngữ được đề cao và để có tri thức thì cần thiết phải có sách dịch. Rồi các bài ca của phong trào “Đông Kinh nghĩa  thục”, thậm chí “Tam quốc chí” còn được một nhà sách dịch ra chữ quốc ngữ in phát không cho người đi qua Bờ Hồ.

Hiệu “Đông Kinh ấn quán” in 4 tập: địa dư, lịch sử, khoa học, toán pháp của Trần Văn Thông vốn trước đó không có ai in đã thu hút người trẻ và cả các nhà Nho tìm đọc sách “cách trí”này. Nhưng vẫn có nhà in luyến tiếc chữ thánh hiền, năm 1911, hiệu “Quan văn” in “Quốc Phong thi” bằng 2 thứ chữ, tầng trên chữ Hán, dưới là chữ quốc ngữ, cuốn “Phương ngôn tục ngữ” thì trên là chữ Nôm, dưới quốc ngữ. Để in chữ quốc ngữ, họ vẫn dùng bản khắc gỗ. 

Khi công nghệ in kiểu phương Tây ở Hà Nội trở nên phổ biến thì nghề in mộc bản suy vi. Một số rất ít bỏ tiền đầu tư in theo kiểu mới, những nhà in còn lại xếp các mộc bản vào kho để làm kỷ niệm chấm dứt nghề in ở phố này. Thế nhưng đã theo nghề chữ thì vẫn còn lưu luyến với chữ, Hàng Gai trở thành phố sách. Nhà thơ Huy Cận, có bài thơ về phố sách này: 

“Phố Hàng Gai ngắn bên Hồ Kiếm

Sách mỏng dân gian bán vỉa hè

Bìa đỏ, bìa xanh, bìa tím thẫm

Mười xu một cuốn giấy vàng hoe

Trương Viên, Trinh thử, cùng Trê Cóc

Bên truyện Thạch Sanh với Tống Trân”.

...

Sau năm 1954, nghề làm sách và bán sách ở phố Hàng Gai không còn. 

Tin đọc nhiều