Nhớ "Nước sông Tô vừa trong vừa mát"

ANTD.VN - Sông Tô Lịch xưa dài 30km, bề ngang rất rộng và là giao thông đường thủy quan trọng từ phía Đông Nam vào thành Thăng Long. 

Sông Tô Lịch xưa dài 30km và là giao thông đường thủy quan trọng từ phía Đông Nam vào thành Thăng Long (Trong ảnh: Sông Tô Lịch năm 1885) 

Tô Lịch bắt đầu từ Hà Khẩu (tương ứng với đầu phố Hàng Buồm hiện nay), nơi tiếp giáp với sông Hồng chảy qua Ngõ Gạch, Hàng Lược, men theo chân thành Thăng Long (nay là Phùng Hưng) qua các làng Thụy Khuê, Hồ Khẩu đến Yên Thái thì gặp sông Thiên Phù. Nơi gặp của hai con sông xưa gọi là ngã  ba Giang Tân.

Ở đây, sông Tô Lịch lại lấy nước của Thiên Phù rồi chảy qua Nghĩa Đô, đến Cầu Giấy theo đường Láng xuống Ngã Tư Sở. Từ ngã tư này, sông quặt theo hướng Đông Nam chảy qua Thượng Đình, Hạ Đình, Định Công đổ ra sông Nhuệ, đoạn sông này dài 13,5km.

Theo sách “Việt điện u linh”, Tô Lịch là tên một vị Trưởng làng vì có nhiều công với dân làng. Khi ông mất, nhớ ơn công lao, dân lấy tên ông đặt tên làng rồi ông được phong là Long Đỗ thần hay “Tô Lịch giang thần”. Hồ Tây thông với sông Tô qua cống Đõ ở đầu làng Hồ Khẩu (cửa hồ). Vì nước sông Tô có lúc lại chảy ra sông Hồng nên người phương Bắc cho rằng sông Tô “nghịch thủy”, lo sợ sự không bình thường, họ đã tổ chức tế lễ “Tô Lịch giang thần” ở đền Bạch Mã và phong ông là “Đô Phủ Thành hoàng thần quân”. 

Một thuyết khác kể, vào thế kỷ thứ IX, Cao Biền làm Tĩnh hải vương quân Tiết độ sứ An Nam Đô hộ phủ. Một hôm, Cao Biền du ngoạn, xem phong thủy thì gặp một ông già hình nhân kỳ dị từ lòng sông bước lên. Cao Biền hỏi tên thì ông già nói: “Lão phu họ Tô, tên Lịch, quê ở gần đây”, nói xong ông già biến mất. Biết đây là thần sông nên Cao Biền đặt tên sông là Tô Lịch. Trải qua các giai đoạn lịch sử, Tô Lịch có nhiều tên gọi khác như: Tô Lịch, Lai Tô, Hương Bài, Địa Bảo nhưng dân chúng Thăng Long thường gọi sông Tô.

Sông Tô đẹp và hiền dịu nhưng có những năm nó cũng hung dữ khi sông Hồng, sông Thiên Phù nổi giận. Năm 824, chính quyền đô hộ nhà Đường dời phủ từ Long Biên về huyện Tống Bình gần sông Tô Lịch, Cao Biền đã huy động 25.000 dân để lập lũy quanh thành Đại La. Lũy nhưng cũng là đê để ngăn nước lũ sông Tô. Năm 886, nhà Đường cho sửa lại 4 mặt lũy, dài 7.930m, cao 10,4m. Nhưng ít năm sau, nước sông Tô Lịch dâng cao tràn vào phủ trị, nhà Đường lại cho đắp đê bao bọc ngoài phủ dài 8.500m gọi là Đại La Thành. Lũy này tồn tại cho đến ngày hôm nay, đó là  đường Hoàng Hoa Thám đến Cầu Giấy.

Khi Lý Công Uẩn dời Hoa Lư xây thành Thăng Long trên nền cũ thành Đại La, đôi lần nước con sông này tràn cả vào thành, đó là những năm 1078, 1128. Năm 1745, các nhà buôn Hà Lan được phép lập thương điếm ở Thăng Long. Thương điếm nằm ở phía Đông thành, giữa sông Tô Lịch và sông Hồng (tương ứng với khu vực phố Hàng Bạc hiện nay). Nhưng một năm nước, sông Tô dâng cao nhấn chìm thương điếm, vì thế họ đã đề nghị triều đình đắp con đê mới tương ứng với bên số lẻ phố Hàng Buồm hiện nay. Còn đoạn đê ngăn lũ sông Hồng tương ứng với phố Nguyễn Hữu Huân kéo dài xuống phố Đinh Tiên Hoàng. Họ cũng đề xuất bỏ kiểu đắp đê theo hình tam giác thay bằng kiểu hình thang, mặt đê có thể dùng làm đường giao thông. Đề xuất này được triều đình chấp thuận. 

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến

Sông Tô là đường giao thông quan trọng nối từ Đông sang Tây kinh thành nên nhiều đoạn trên bến dưới thuyền bán buôn tấp nập. Nổi tiếng nhất là chợ Bạch Mã, tức chợ Đông ở gần Hà Khẩu. Thời Lý Trần, các vua thường đi thuyền rồng dạo chơi trên sông Tô đến cầu Mọc thì dừng lại vì ở đây có đình Lý Thôn, quanh đình cây cổ thụ xum xuê, phong cảnh đẹp. Dọc theo sông Tô xưa có rất nhiều cầu. 

“Sông Tô nước chảy quanh co,

Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya”. 

Đoạn qua Thụy Khuê có cầu Cau, gần đền Đồng Cổ có cầu Thái Hà, cầu Tây Dương (nay là Cầu Giấy), cầu Cót, cầu Mọc. Thế kỷ XVIII, đời chúa Trịnh Doanh, ông Nguyễn Hữu Thiêm người làng Mọc là Thảo chính sứ Tuyên Quang - Hưng Hóa đã bỏ tiền làm 7 cây cầu trên sông Tô bắt đầu từ cầu Cót tiếp đó là cầu Trung Kính, Mọc, Giát (bị phá thay bằng cầu mới), Lủ, Minh Kính (từ Định Công sang Lủ) và cầu Quang (từ làng Bằng sang làng Quang). Dọc hai bên bờ sông Tô có các làng trù phú. Nhờ phù sa và nước sông Tô mà dân làng Láng nổi tiếng kinh thành về trồng rau:

“Đi đâu mà chẳng biết ta

Ta dân Kẻ Láng vốn nhà trồng rau”.    

Sông Tô đoạn chảy qua Nam hồ Tây còn là con sông của trai thanh gái lịch những đêm trăng trong gió mát:

“Biết nhà cô ở đâu đây,

Hỡi trăng Tô Lịch hỡi mây Tây Hồ?”. 

Xưa làng Hồ Khẩu và Yên Thái làm giấy đều ngâm dó và đổ bọt giấy ra sông Tô. Nửa đầu thế kỷ XVIII, sông Hồng đổi dòng cát bồi lấp cửa sông  Thiên Phù nên sông này thành sông chết, vì thế Tô Lịch mất nguồn cấp nước. Mùa khô, nước sông Hồng cạn không thể cấp cho Tô Lịch và cho cả hồ Tây. Nhưng mùa mưa, nước sông Hồng dâng cao lại qua cửa Hà Khẩu  chảy vào Tô Lịch. Khi sông Hồng đổi dòng, cát bồi lấp Hà Khẩu nên nước  không thể chảy vào Tô Lịch và Tô Lịch thành sông chết. Năm 1889, người  Pháp cho lấp khúc sông gần Hàng Chiếu làm chợ Đồng Xuân và sau đó làm cống ra đến tận trường Chu Văn An. Từ đó, phần còn lại của con sông này bị lấp dần xóa sổ con sông thắng cảnh và thấm đẫm truyền thuyết.

Tô Lịch hiện vẫn còn nhưng trở thành kênh thoát nước cho cả khu vực từ phía Tây kéo xuống phía Đông Nam thành phố, bắt đầu từ ngã ba Hoàng Quốc Việt và Lạc Long Quân. Thực ra, có thể phục hồi lại được con sông lịch sử này nếu nước thải được xử lý trước khi chảy ra sông thì nước dòng Tô Lịch mới trở lại như câu ca dao xưa:

“Nước sông Tô vừa trong vừa mát 

Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh”.