Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ

ANTD.VN - Tôi biết đến Công viên Thủ Lệ lần đầu tiên qua truyện ngắn “Con voi ở công viên Thủ Lệ” của nhà văn Ngô Văn Phú in trong sách giáo khoa mà những thế hệ học sinh chúng tôi từng được học. Và cái ấn tượng về con voi có tên A Khầm ấy cứ hối thúc tôi một ngày được đến công viên và nhìn ngắm chúng.

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 1Đền Voi Phục - một trong “Thăng Long tứ trấn” nằm trong khuôn viên của Công viên Thủ Lệ

Sự hấp dẫn của những huyền sử

Công viên Thủ Lệ không chỉ có voi mà hiện thời có rất nhiều loại chim thú đặc trưng ở đó. Đó là những chú hổ Đông Dương, hổ Amur có tiếng gầm ghê rợn, những con sư tử châu Phi nằm dài trên những bệ gỗ, những con đà điểu to lồng ngồng, vài chú cá sấu nằm giả chết, lũ vẹt Nam Mỹ lúc nào cũng ầm ĩ cùng những báo, khỉ, hà mã, nhím, hươu, nai…

Công viên Thủ Lệ còn cho tôi một kỷ niệm đáng nhớ nữa, đó là khi tôi chập chững viết văn, tôi nhớ khi ấy đài báo đưa tin, lần đầu tiên có một chú hổ con được sinh ra ở ngay trong công viên và được đặt tên là Sơn Nhi - nghĩa là “đứa con của rừng”. Tôi thích thú với cái tên đó quá và lấy làm tên một nhân vật nữ chính trong truyện ngắn lịch sử của mình.

Nhưng chính lịch sử của mảnh đất Công viên Thủ Lệ cũng là một bề dày những trầm tích văn hóa rất đáng chú ý về sự hình thành và phát triển của những làng ven đô quanh kinh thành Thăng Long. Công viên Thủ Lệ vốn nằm trên đất làng Thủ Lệ xưa kia. Cái tên Thủ Lệ liên quan tới một thần tích đáng chú ý của tín ngưỡng dân gian mà mỗi câu chuyện liên quan được giải thích một cách đa dạng và mang thêm sự hấp dẫn cho những huyền sử tồn tại trong vùng.

Huyền sử đáng chú ý nhất liên quan đền Voi Phục nằm trong khuôn viên Thủ Lệ bây giờ. Đền Voi Phục thờ vị thần chủ là Hoàng tử Linh Lang, sau được phong  Đại vương và trở thành một vị thánh. Linh Lang là một trong những vị thần quan trọng của hệ thống tín ngưỡng Việt, được rất nhiều nơi thờ phụng và lai lịch, thần tích của thần thì rất khác nhau và đa dạng. Ngay ở khu vực nội thành Hà Nội, Linh Lang được thờ ở hơn chục ngôi đền khác nhau. Và ở 3 ngôi làng cổ của Hà Nội là Yên Phụ, Thụy Khuê và Thủ Lệ thì đã có 3 thần tích khá khác nhau về lai lịch của thần. Nhưng trong tất cả những nơi thờ Linh Lang thì đền Voi Phục là nơi quan trọng và nổi tiếng nhất vì đây là quê mẹ của thần và nơi thần hóa. Một điểm đáng chú nữa là Linh Lang được coi là một trong những vị thần bảo vệ cho kinh thành Thăng Long. Đền Voi Phục là một trong “Thăng Long tứ trấn” cùng với đền Bạch Mã, đền Quán Thánh và đền Kim Liên.

Vì sao Linh Lang được coi là vị thần quan trọng hộ mệnh cho kinh thành Thăng Long, chủ yếu vì thần là người đã có công đánh giặc cứu nước. Theo huyền sử làng Thủ Lệ thì Linh Lang là Hoàng tử con Vua Lý Thánh Tông. Chàng đã có công  lớn trong việc đánh dẹp giặc Tống. Khi đánh thắng giặc trở về, nhà vua đã có ý muốn nhường ngôi cho Linh Lang nhưng Hoàng tử không chịu. Hoàng tử sau đó mắc bệnh và xin về ở quê mẹ là Trại Chợ - tên cũ của làng Thủ Lệ để tĩnh dưỡng. Một thời gian hoàng tử  mất, biến thành con giao long và trườn xuống hồ Dâm Đàm (hồ Tây) rồi biến mất.

Hoàng tử mất, vua thương tiếc cho lập đền thờ, giao cho dân làng giữ lệ thờ cúng và được miễn các khoản tạp dịch. Cái lệ ấy được yêu cầu truyền đời và tên Thủ Lệ ra đời. Thủ Lệ nghĩa là giữ lấy cái lệ thờ cúng ấy. Gần đây, tôi có đọc trên mạng có cách giải thích rằng, Thủ Lệ là mảnh đất có hình giống như giọt lệ, e rằng điều đó không đúng và khiên cưỡng. 

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 2Quang cảnh Công viên Thủ Lệ ngày nay 

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 3

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 4

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 5

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 6

Miền trầm tích lịch sử và tín ngưỡng dân gian mang tên Thủ Lệ ảnh 7Công viên Thủ Lệ ngày nay có rất nhiều loại chim thú đặc trưng 

Đặc sắc những cái tên dân gian

Điều thú vị nữa là trong khuôn viên Công viên Thủ Lệ và đền Voi Phục có những cái tên được đặt rất đặc thù theo kiểu dân gian Việt Nam. Đền thờ Linh Lang đại vương nhưng gọi là Voi Phục vì cổng đền có 2 con voi nằm phục theo lệnh của Hoàng tử. Khu vực này xưa còn có ngọn núi gọi là Núi Bò vì ngày trước, khi dân làng Thủ Lệ làm đám rước mang bài vị của thần từ đình làng Vạn Phúc sang đền Voi Phục thì phải đi qua một quả đồi cao, và để tránh cho khỏi làm đổ bài vị thì những người khênh kiệu đôi khi phải nằm bò xuống, từ đó cái tên Núi Bò ra đời. 

Thủ Lệ ngày trước vốn là một khu ít dân, ao đầm và cây cối mọc um tùm. Khi cải tạo thành công viên thì khu vực này vẫn còn nhiều cây cổ thụ rất lớn. Bây giờ quanh khu vực đền Voi Phục vẫn còn có những cây muỗm to nhiều người ôm không xuể, những cây si xanh tốt rủ bóng xuống mặt hồ tạo thành một cảnh quan đẹp và yên bình.

Quay lại lịch sử hình thành Công viên Thủ Lệ. Công viên được xây dựng từ năm 1975 đến 1977 thì xong và đón nhận những chim thú từ Công viên Bách Thảo đưa sang. Có nhiều nhân vật nổi tiếng đã từng tặng quà cho Thủ Lệ. Đó là Chủ tịch Kim Nhật Thành của Triều Tiên tặng đôi sếu Nhật Bản, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng đôi trăn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng nai Viêng Chăn… 

Theo thời gian, Công viên Thủ Lệ giờ đã có hàng trăm loài chim thú, hàng nghìn cây xanh, những vườn hoa nhiều màu sắc, thảm cỏ rộng và rất nhiều các trò chơi phục vụ các em nhỏ. Công viên ngoài là nơi trưng bày, nuôi dưỡng các loài động vật từ khắp nơi trên thế giới còn là lá phổi xanh quan trọng của thành phố. 

Thủ Lệ từ lâu đã là một nơi đến ưa thích của người dân Thủ đô và đặc biệt là các em nhỏ. Những dịp cuối tuần, nghỉ hè, lễ Tết, công viên luôn đông nghịt trẻ em đến vui chơi, không chỉ của Hà Nội mà còn từ các tỉnh lân cận. Trong không gian cây xanh có nhiều loại chim thú và các trò chơi cho thiếu nhi thì ở một góc tĩnh lặng, Thủ Lệ còn mang trong mình một miền trầm tích của lịch sử và tín ngưỡng dân gian. Đền Voi Phục nằm trong khuôn viên Thủ Lệ như một nét nhấn cổ kính và trầm tư của sự hòa quyện giữa hiện đại và truyền thống, giữa trang nghiêm và ăm ắp tiếng cười trẻ thơ.