Hồ Trúc Bạch - năm tháng những dấu tích lịch sử

ANTD.VN - Hồ Trúc Bạch tuy không nổi tiếng bằng hồ Gươm và hồ Tây nhưng so với các hồ ở Hà Nội, Trúc Bạch là một hồ lớn và có một lịch sử lâu đời và nếu xếp theo thứ hạng thì Trúc Bạch là 1 trong 3 hồ nổi tiếng nhất của Hà Nội.

Về cái tên Trúc Bạch, ngày trước hồ vốn thuộc địa phận làng Trúc Yên, một làng có nghề biên mành trúc, sau lại có thêm nghề dệt lụa. Tiếng Hán gọi lụa là bạch, Trúc Bạch nghĩa là lụa làng Trúc, hồ nằm trên đất làng nên đương nhiên có tên gọi ấy.

Hồ Trúc Bạch - năm tháng những dấu tích lịch sử ảnh 1Đền Thủy Trung Tiên (hay đền Cẩu Nhi) nằm trên hòn đảo nhỏ phía Tây hồ Trúc Bạch gắn với sự kiện vua Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long

Sự tích lụa làng Trúc

Thế nhưng nghề dệt lụa ở Trúc Bạch không chỉ đơn giản có vậy. Theo dấu lịch sử có thể thấy nghề dệt lụa ở đây có liên quan tới cung vua, phủ chúa xưa kia. Nguyên xưa chúa Trịnh Giang (1711-1762) là một tay ăn chơi khét tiếng, có nhiều cung tần mỹ nữ. Thấy vùng ven hồ yên tĩnh, thắng cảnh đẹp, Trịnh Giang lập ra một tòa biệt viện có tên là Trúc Lâm và đưa các cung nữ ra đấy hành lạc, nhưng chỉ được mấy năm, biệt viện trở thành một lãnh cung chuyên dùng để an trí các cung nữ mắc tội. Với các cung nữ này, nhà chúa hầu như không chu cấp gì cả, ngoài một ít tơ tằm, khung cửi coi như là cấp vốn ban đầu, các cung nữ phải tự chăn tằm, dệt lụa để kiếm sống. Các cung nữ là những người khéo tay nên thứ lụa được làm ra từ làng Trúc này được nhiều người ưa thích và có câu ca ngợi rằng:

“Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng

May áo chàng cùng sóng áo em

Chữ tình gắn với chữ duyên

Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền”.

Miếu Cẩu Nhi - miếu Cẩu Mẫu

Trúc Bạch không chỉ có lụa, về đặc điểm địa lý, hồ Trúc Bạch không quá lớn nhưng có đến hai hòn đảo, đó là đảo Châu Chử và đảo Ngũ Xã. Đảo Châu Chử tuy rất nhỏ nhưng liên quan tới tín ngưỡng của người Việt thờ linh vật chó. Điều này đã được chép trong “Tây Hồ chí” - một cuốn sách cổ viết về vùng hồ: “Cẩu Nhi là chó con, mẹ là Cẩu Mẫu. Đền ở trên bến Châu Chử góc Tây Bắc hồ. Khi Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, truyền rằng ở chùa Thiên Tâm trên núi Ba Tiêu châu Bắc Giang có một con chó trắng có chửa bỗng bơi qua sông Cái rồi lên ở núi Khán. Sau đó đẻ được một chó con. Đến năm Nhâm Tuất hai chó đều hóa. Khi Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long nghe chuyện này bèn bảo: “Đó là chó thần” rồi sai dựng miếu thờ chó mẹ trên núi Khán, miếu thờ chó con ở trên hồ. Nay miếu Cẩu Nhi còn đó thuộc địa phận thôn Trúc Yên, miếu Cẩu Mẫu sau là chùa Khán Sơn”. 

Tín ngưỡng thờ chó tồn tại từ lâu đời trong đời sống các dân tộc Việt. Chó là một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà, đuổi các ma quỷ quấy nhiễu. Không khó để tìm thấy các tượng chó đá ở các cổng chùa, đền, trên các bệ thờ trên khắp nước Việt. Người Cơ Tu coi con chó là vật tổ của họ, người Dao thờ Bàn Hồ vốn là một con chó thần. Truyền thuyết và thờ phụng chó còn thấy ở nhiều dân tộc khác như Xê Đăng, Chăm, Tày, Dao…và theo tín ngưỡng phương Đông, chó là 1 trong 12 vật chủ trong hệ Can Chi. Việc thờ chó đá khá phổ biến trong các vùng Việt Nam còn nhiều dấu tích, các khu vực ở Hà Nội, Hải Dương, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang… đều dễ dàng tìm thấy các linh vật loại này. Người ta gọi chó đá là “thần Cẩu”, “cụ Thạch”, “quan lớn Hoàng Thạch”…

Đảo Ngũ Xã

Quay lại hồ Trúc Bạch, còn một cái đảo nữa thuộc vùng hồ mà ít người để ý, đó là đảo Ngũ Xã, nổi tiếng với nghề đúc đồng với tổ nghề là thiền sư Nguyễn Minh Không, người có những huyền tích rất lý thú. Xưa kia, vùng đảo Ngũ Xã tách rời với đất liền và trong các bản đồ cũ của Hà Nội thì nhìn thấy rất rõ sự tách bạch này; dấu vết hiện giờ là vào khu vực Ngũ Xã vẫn phải đi qua hai cây cầu nối đất liền với vùng đảo.

Tôi đã ra hồ Trúc Bạch một buổi chiều muộn mà ngắm hoàng hôn. Chiều muộn ngắm Trúc Bạch từ phía Ngũ Xã rất đẹp, đường Trấn Vũ thanh vắng, cong cong uốn lượn, thỉnh thoảng có một con chim lớn giật mình thảng thốt bay qua kêu những tiếng rất to. Đứng ở bên phía Ngũ Xã ngắm Trúc Bạch có cái thú là không bị cái không gian rộng lớn, rợn ngợp của hồ Tây chi phối. Trúc Bạch một mình đủ các cung bậc lãng mạn, hào hoa về một vùng hồ nước thơ mộng bậc nhất đất kinh kỳ.

Những dấu ấn lịch sử

Trúc Bạch không chỉ thơ mộng, Trúc Bạch có những dấu ấn lịch sử đáng nhớ. Ngày  26-10-1967, quân dân Hà Nội đã bắt sống Thiếu tá phi công John McCain ngay trên mặt hồ này. John McCain là ai? Đó là một trong những phi công Mỹ nổi tiếng nhất từng bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, người có cả ông nội và bố đều là Đô đốc trong lực lượng hải quân Mỹ; và chính John McCain sau này trở một Thượng Nghị sỹ của bang Arizona, người nổi tiếng với những quan điểm độc lập, thẳng thắn, đã hai lần ra tranh cử Tổng thống Mỹ và là một trong những chính khách Mỹ có công trong việc ủng hộ việc dỡ bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam cũng như thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

John McCain bị bắt ở hồ Trúc Bạch sáng ngày 26-10-1967. Nhiều người Hà Nội còn nhớ buổi sáng hôm ấy, chiếc máy bay A-4E Skyhawk bị trúng đạn tên lửa, John McCain nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch. Viên Thiếu tá gãy cả hai tay và một chân, gần như chết đuối và nhờ sự cứu giúp của quân dân Việt ông ta mới thoát chết. Thêm một chi tiết thú vị nữa, khi John McCain ở trong Viện Quân y 108 để điều trị vết thương, chính nhà văn Nguyễn Tuân là người phỏng vấn John McCain để viết bài bút ký: “Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào”. Một nhà văn nổi tiếng của Hà Nội phỏng vấn viên tù binh nổi tiếng, bài bút ký có tên như vậy vì John McCain bị bắn hạ trong khi đang ném bom Nhà máy điện Yên Phụ.

Để ghi dấu sự kiện này, bên hồ Trúc Bạch có một tượng đài nhỏ mô phỏng hình ảnh John McCain bị rơi xuống hồ như một chiến công của quân dân Hà Nội.

Lãng đãng chiều Trúc Bạch

Hồ Trúc Bạch, về sự thơ mộng thì không thua kém bất kỳ hồ nào ở Hà Nội,  đường Thanh Niên chia hồ Tây và hồ Trúc Bạch ra làm hai được trồng nhiều hoa phượng, bằng lăng. Mùa hè con đường đỏ thắm sắc hoa học trò và đến tận mùa đông, những quả phượng vẫn còn lúc lỉu như những thanh gươm là những hình ảnh gợi sự thanh bình, dịu dàng.  

Quanh hồ Trúc Bạch giờ có rất nhiều khách sạn, nhà hàng. Những món ăn nổi tiếng mà Trúc Bạch sở hữu là bánh tôm, kem. Gọi là bánh tôm hồ Tây, kem hồ Tây nhưng thực ra những nhà hàng này đều nằm bên phía hồ Trúc Bạch. Và còn thú gì  hơn khi ăn một đĩa bánh tôm nóng hổi vừa giòn vừa thơm vào ngày đông se lạnh, ngắm mặt hồ lăn tăn gợn sóng hay thưởng thức một que kem mát lạnh vào mùa hè, dựa vào lan can hồ mà nói chuyện với người thân yêu. Ngoài bánh tôm và kem, quanh hồ còn những quán cà phê rất lãng mạn và thi vị và một loại bia danh bậc tiếng của Hà Nội cũng được đặt theo tên hồ: bia Trúc Bạch.

Thế thì chần chừ gì nữa mà không lượn một vòng quanh Trúc Bạch mà ngắm cảnh yên bình hoặc vào thăm đền Cẩu Nhi nay đã được xây mới với cái tên Thủy Trung Tiên (tiên trong nước) để có những phút tĩnh lặng trang nghiêm. Cái đặc sắc của ngôi đền xinh xắn này là lư hương, tượng thờ đều bằng đồng, do chính dân làng Ngũ Xã làm ra. Đi qua cây cầu đá cong cong, ngắm những bức tượng tinh xảo, ôn lại truyền thuyết về một loài linh vật liên quan đến vùng đất và trò chuyện cùng những người thân yêu trong làn gió mát lộng thì còn gì thú bằng.

Tin đọc nhiều