Yugo (Yono) là tên ký hiệu NATO dành cho một lớp tàu ngầm mini của Hải quân Triều Tiên, sở dĩ có tên gọi Yugo là do phương Tây tin rằng chiếc đầu tiên của lớp này được đóng tại Nam Tư (Yugoslavia) vào năm 1965.
Tàu ngầm Yugo có kích thước rất khiêm tốn với chiều dài 22 m; chiều rộng 3,1 m; lượng giãn nước 90 tấn khi nổi và 110 tấn khi lặn. Thủy thủ đoàn 4 người và mang được tối đa 7 lính đặc nhiệm.
Trái tim của tàu ngầm Yugo là 1 động cơ diesel MTU 320 mã lực cùng 1 động cơ điện dự bị cho tốc độ tối đa 10 hải lý/h khi nổi và 4 hải lý/h khi lặn, tầm hoạt động 550 hải lý.
Hệ thống cảm biến gồm sonar và radar mini, vũ trang bằng 2 ống phóng lôi cỡ 406 mm hoặc 533 mm. Hiện tại Triều Tiên có khoảng 10 tàu ngầm mini lớp Yugo vẫn còn hoạt động.
Sang-O là lớp tàu ngầm có số lượng đông đảo nhất của Hải quân Triều Tiên với hơn 40 chiếc vẫn đang hoạt động, đây là phiên bản cải tiến của tàu ngầm diesel-điện mini lớp Yugo.
Tàu ngầm mini Sang-O có 2 biến thể với thông số lần lượt bao gồm: chiều dài 34 m và 39 m; lượng giãn nước đầy tải vào khoảng 370 - 400 tấn. Nó thường được dùng để thả biệt kích xâm nhập lãnh hải Hàn Quốc.
Hệ thống động lực của tàu gồm 1 động cơ diesel cỡ nhỏ và 1 động cơ điện dự bị, cho tốc độ tối đa 9 hải lý/h (17 km/h) khi lặn; tầm hoạt động 1.500 hải lý (2.800 km).
Tương tự Yugo, tàu ngầm mini lớp Sang-O cũng được trang bị đầy đủ hệ thống sonar và radar định vị mục tiêu cùng 2 ngư lôi hạng nặng 53-65KE cỡ 533 mm.
Type 033 là lớp tàu ngầm diesel-điện do Trung Quốc sản xuất dựa trên nguyên mẫu Dự án 633 lớp Romeo của Liên Xô. Ra đời từ những năm 1950 nên Type 033 mang nặng tư duy thiết kế của tàu ngầm thời Chiến tranh thế giới II.
Hải quân Triều Tiên đang có trong biên chế khoảng 20 tàu ngầm Type 033, chúng được lắp ráp trong nước theo những linh kiện mà Trung Quốc cung cấp.
Đây là lớp tàu ngầm lớn nhất của Triều Tiên với lượng giãn nước đầy tải 1.830 tấn khi lặn; chiều dài 76,7 m; chiều rộng 6,7 m; mớn nước 5,2 m khi nổi.
Tàu được trang bị 2 động cơ diesel công suất 2,94 MW và 2 động cơ điện 2 trục, cho tốc độ tối đa 15,2 hải lý/h khi nổi và 13 hải lý/h khi lặn, tầm hoạt động 9.000 hải lý (14.484 km), thủy thủ đoàn 54 người trong đó có 10 sĩ quan.
Vũ khí trang bị của Type 033 gồm 8 ngư lôi hạng nặng cỡ 533 mm (6 ống phóng phía trước và 2 phía sau), cảm biến gồm radar và sonar cùng hệ thống tác chiến điện tử MRP 11-14.
Nhìn chung đây là lớp tàu ngầm đã vô cùng lạc hậu, có độ ồn rất cao, độ an toàn và hiệu suất chiến đấu đều rất kém.
Sinpo chính là lớp tàu ngầm mới và hiện đại nhất của Hải quân Triều Tiên, được thiết kế cho nhiệm vụ mang phóng tên lửa đạn đạo KN-11.
Tàu ngầm lớp Sinpo được dự đoán có chiều dài 65 m; chiều rộng 6,5 m; trang bị 2 ống phóng tên lửa đạn đạo đặt trong phần thượng tầng, kiểu thiết kế này tương tự tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Golf của Liên Xô.
Việc đặt các ống phóng tên lửa đạn đạo vào tháp chỉ huy giúp không phải chế tạo phần thân tàu lớn hơn để đủ diện tích chứa ống phóng, phương án này tuy có ưu điểm gọn nhẹ nhưng lại hạn chế số lượng tên lửa mang theo.
Tàu ngầm lớp Sinpo được cho là có khả năng phóng tên lửa đạn đạo KN-11 trong khi đang lặn thay vì phải nổi lên mặt nước như tàu ngầm lớp Golf. Do kích thước ống phóng của Sinpo khá nhỏ nên dự đoán tên lửa KN-11 có tầm bắn chỉ vào khoảng 200 km.