Các lực lượng phòng không của Syria đã triển khai một số tên lửa S-200 để đối phó với các máy bay Israel ngay sau khi chúng xâm nhập không phận để thực hiện vụ tấn công vào căn cứ sân bay T-4.
Được biết vụ tấn công ồ ạt của không quân Israel nhằm vào căn không quân T-4 diễn ra vào ngày hôm qua (8-7).
Trong một tuyên bố chính thức, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Chính phủ Syria (SAA) cho biết, các lực lượng phòng không của Syria (SyAADF) đã ngay lập tức khai hỏa giáng trả và đã gây thiệt hại cho một máy bay của Israel đồng thời bắn hạ một số tên lửa không đối đất.
Kênh truyền hình Nhà nước Syria dẫn một nguồn tin quân sự cho biết: “Các hệ thống phòng không của chúng tôi đã đẩy lùi hành động xâm lược của Israel và bắn hạ một số tên lửa nhằm vào căn cứ T-4”.
Theo hãng thông tấn Nhà nước Syria (SANA) một số tên lửa tấn công khác đã lọt qua mạng lưới phòng không Syria và đánh trúng căn cứ nhưng chỉ gây thiệt hại về cơ sở hạ tầng.
Trong khi đó, theo Kênh truyền hình Al Jazeera, khoảng từ 4 - 6 tên lửa Israel đã đánh trúng căn cứ T-4 và những khu vực lân cận.
Truyền thông Syria không đưa tin về con số thương vong nhưng theo các lực lượng đối lập đã có 9 người thiệt mạng trong vụ không kích mới nhất này.
Phía Israel vẫn chưa lên tiếng về sự kiện nêu trên. Được biết căn cứ không quân T-4 do nằm trong khu vực trọng điểm nên thường bị Israel oanh kích.
Để phòng bị cho căn cứ này, phía Syria đã triển khai nhiều hệ thống phòng thủ trong đó có S-200 tới đây.
Trước đó hệ thống này cũng đã bắn bị thương, thậm chí bắn rơi một một máy bay chiến đấu F-16 của Israel.
Quân đội Syria được cho là sở hữu khoảng 2 trung đoàn tên lửa S-200 với 44 hoặc 50 hoặc 48 bệ phóng theo số liệu năm 2010.
Tuy nhiên, cuộc nội chiến nổ ra vào năm 2011 đã khiến các hệ thống S-200 của Syria tổn hại nặng nề.
Tính tới thời điểm năm 2014, ước tính Quân đội Syria chỉ còn 10 khẩu đội S-200 bố trí tại bốn căn cứ.
S-200 Angara/Vega/Dubna, tên ký hiệu NATO SA-5 Gammon là hệ thống tên lửa đất đối không (SAM) tầm xa, trần bắn từ trung bình đến cao, được thiết kế nhằm bảo vệ những mục tiêu lớn khỏi các máy bay ném bom hoặc các loại máy bay chiến lược khác của phương Tây (như SR-71 Blackbird).
Mỗi tiểu đoàn biên chế gồm 6 bệ phóng tên lửa đơn và đài radar điều khiển hỏa lực. Hệ thống phòng không S-200 còn có thể liên kết với các hệ thống radar tầm xa khác.
Dù ra đời trong thập niên 1960-1970, tổ hợp S-200 vẫn có khả năng nâng cấp sâu, cho phép kết nối và chia sẻ dữ liệu với những hệ thống phòng không hiện đại như S-300.
Mỗi quả đạn 5V28 của S-200 dài 10,8 m, nặng 7,1 tấn và mang đầu đạn nổ mảnh nặng 217 kg hoặc vũ khí hạt nhân có sức công phá tương đương 25.000 tấn thuốc nổ TNT.
Tên lửa dùng ngòi nổ chạm hoặc cận đích cho đầu đạn thông thường, trong khi đầu đạn hạt nhân chỉ được kích hoạt bằng lệnh thủ công.
Tên lửa S-200 áp dụng cơ cấu dẫn đường bằng radar bán chủ động (SARH) kết hợp với cập nhật pha giữa bằng tín hiệu vô tuyến.
Sử dụng phương thức SARH trên toàn hành trình giúp tăng độ chính xác của S-200 ở khoảng cách lớn, cải thiện đáng kể hiệu quả so với dùng tín hiệu điều khiển vô tuyến thủ công trên mẫu S-75 Dvina trước đó.
Quả đạn có tốc độ tối đa 9.000 km/h, có thể tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 300 km và độ cao 40 km.
Chúng được trang bị 4 động cơ đẩy sơ tốc PRD-81/5S28 hoạt động bằng nhiên liệu rắn. Tầng đẩy PRD-81/5S28 chỉ hoạt động trong tối đa 5 giây, giúp đạn 5V28 đạt tốc độ đủ lớn trước khi kích hoạt động cơ chính. Sau đó, 4 động cơ đẩy sơ tốc sẽ được tách khỏi thân đạn để giảm khối lượng và lực cản.
Điểm yếu của hệ thống S-200 chính là sử dụng bệ phóng cố định và radar cồng kềnh, không có khả năng cơ động trong điều kiện chiến tranh. Tuy một số nước như Iran từng hiện đại hóa S-200 để giảm thời gian triển khai và thu hồi.