Phim Việt hoá - Nghèo nàn và cẩu thả

ANTĐ - Hiện nay có một xu hướng mới của các nhà làm phim truyền hình Việt Nam mà nói theo từ chuyên môn là Việt hoá phim nước ngoài, hay gọi theo giọng thương mại là nhái lại các phim nước ngoài một cách thảm hại, lười biếng, thiếu cả tài năng lẫn trách nhiệm đối với khán giả.

Bào chữa cho sự nhái tệ hại này không ít nhà quản lý, làm phim lại đổ cho kịch bản phim trong nước nghèo nàn, thiếu tính hấp dẫn, thiếu hành động ly kỳ và tình tiết sinh động… Những lý do đó đưa ra thật khó thuyết phục mà nó chỉ tiêu biểu cho sự thụ động, ăn xổi, lười sáng tạo của các nhà làm phim Việt, mặt khác nó cũng tiêu biểu cho thực trạng đáng buồn đang bao phủ. Đó là sự lười đọc, hay là sự xuống cấp đáng báo động của văn hóa đọc ở nước ta. Đáng buồn hơn sự lười này biểu hiện ngay cả hàng ngũ nghề nghiệp những người cần đọc như các nhà lý luận phê bình văn học, các nhà làm phim, các nhà thẩm định những giải thưởng văn hoá nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên giai đoạn các nhà làm phim còn chịu đọc, sự xâm thực phim nước ngoài chưa mạnh mẽ và nhất là nhu cầu phim truyền hình chưa thúc ép như hiện nay thì không ít tác phẩm văn học đã chuyển thận trọng, đầy tâm huyết thành những bộ phim truyền hình hấp dẫn như “Mùa lá rụng trong vườn”, “Sóng ở đáy sông”… Tiếc thay sự làm phim truyền hình chu đáo, cẩn thận đó giờ đây đã bị thay thế bằng một kiểu làm phim theo lối “ngắt ngọn” ăn xổi núp dưới cái tên “Việt hóa”.

Biện pháp Việt hóa không mới. Còn nhớ, cách đây vài năm tức vào năm 2005 khi các hãng phim tư nhân được phép hoạt động thì hãng BMD mở đầu trào lưu Việt hóa kịch bản nước ngoài với kịch bản “Nguyệt quán” của Italia. Rồi liền sau hãng này liên tiếp Việt hóa “Người mẹ nhí” (Tây Ban Nha), “Cô gái xấu xí” (Venezuela) “Có lẽ nào ta yêu nhau”,“Ngôi nhà hạnh phúc” (cùng của Hàn Quốc)… Hãng M&T thì Việt hóa “Cô nàng bất đắc dĩ” (Argentina), “Cô nàng bướng bỉnh”, “Anh em nhà bác sỹ” (cùng của Hàn Quốc )… Đến nay thì vẫn còn không ít hãng phim sốt sắng xuất ngoại đi mua kịch bản, bản quyền phim nước ngoài về Việt hóa mà chủ yếu là kịch bản Hàn Quốc.

Bản thân cách thức Việt hóa phim không có lỗi nếu nó được làm một cách bài bản, khoa học, công phu dựa trên sự nghiên cứu và chuyển hoá của những người có tay nghề, trách nhiệm. Nhất là khi nền điện ảnh nước ta đang trên đường xây dựng. Đáng tiếc cách Việt hóa hiện nay trong phim truyền hình lại là sự cẩu thả, vô trách nhiệm. Gần hết các phim Việt hóa đều bê nguyên xi phim nước ngoài từ cốt truyện, tình tiết, tâm lý nhân vật. Trong đó diễn viên Việt nói tiếng Việt nhưng diễn cuộc sống nước ngoài, sống với tâm trạng nước ngoài một cách phản cảm, lãng phí tiền mà lại gây ra những tác hại không nhỏ trong sự giáo dục thế hệ tương lai. Cái gọi là Việt hóa có chăng là sự đổi tựa đề, đổi tên nhân vật, và đổi diễn viên. Khán giả phát chán khi mở tivi vẫn thấy những mối tình tay ba vớ vẩn, những gã đàn ông, những ả đàn bà chẳng biết vì sao cũng bị ung thư máu trắng, những cô gái hễ cứ chán đời, có sự cố trong tình yêu là tu bia, rượu ừng ực (một thứ Việt hoá rượu Sochu nhàn nhạt của Hàn Quốc) rồi nói những câu thoại như thứ văn dịch ngô nghê. Vài năm trở lại đây Nhật Bản - quốc gia hiện đại, phát triển nhưng luôn chú trọng bảo vệ văn hoá cổ truyền đã rộ lên phong trào phản đối Hallyu – trào lưu ảnh hưởng văn hóa Hàn Quốc. Còn ở ta làm phim Việt hóa “mì ăn liền trộn nộm đu đủ” kiểu này sẽ mang lại gì trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam, giữ gìn bản sắc dân tộc.

Trong lần làm việc với Đài MBS của Hàn Quốc được chứng kiến tận mắt cách làm phim và tổ chức sản xuất phim của đài này tôi mới hiểu vì sao Điện ảnh Hàn Quốc nói chung và điện ảnh truyền hình Hàn Quốc lại mạnh như thế. Cùng với đài KBS; đài MBS là một trong hai Đài PT-TH mạnh của Hàn Quốc nhưng ngay từ khi mới thành lập đài này đã xác định sự xây dựng một hãng phim truyền hình thực sự mạnh. Ngoài việc xây dựng cơ sở vật chất làm phim ngày càng hoàn chỉnh thì hàng năm MBS mở chiến dịch thăm dò dư luận xã hội, sở thích hàng năm của khán giả về phim ảnh trong cả nước. Từ đó có kế hoạch mời các tác giả đạo diễn hợp tác viết kịch bản đáp ứng cả số lượng lẫn đề tài phim cả năm. Với một phương châm làm việc nhất quán đó nên mặc dù là đài PT-TH nhưng MBS trong gần chục năm trở lại đây đã trở thành một trong những hãng phim mạnh của Hàn Quốc cho ra những tác phẩm nổi tiếng không chỉ ở Hàn Quốc mà cả trên thế giới như phim “Nàng Dae Jang Geum”, “Vinh quang Gia tộc”(phim nay được Việt hóa với tên gọi “Cầu vồng tình yêu”).

Đã đến lúc ngành làm phim cũng như các ngành văn hóa, nghệ thuật của ta để có được các thành tựu đáng tự hào cần nhanh chóng bỏ đi sự làm phim chụp giật, chữa cháy mà hãy hướng đến làm những phim có chiều sâu. Và điều quan trọng cần thăm dò dư luận khán giả truyền hình chứ không nên làm phim và “áp đặt” khán giả phải xem như hiện nay.