Đứng tên vay tài sản ngân hàng nhưng bị người khác bán và chiếm đoạt

ANTD.VN - Trần Văn H (SN 1979) và Trần Văn L (SN 1894) là hai anh em ruột. Trần Văn H là Giám đốc Công ty TNHH A, còn Trần Văn L là Giám đốc Công ty TNHH B. Vì Công ty của Trần Văn L làm ăn không có hiệu quả, vay nhiều ngân hàng nhưng mất khả năng thanh toán nên L bàn bạc, thỏa thuận với H là mượn danh nghĩa công ty của H để thuê tài chính tại ngân hàng là 2 xe đào bánh xích, giá trị tài sản thuê là 1,2 tỷ đồng trong thời hạn 60 tháng, H đồng ý. 

Sau khi Trần Văn H đại diện Công ty A, ký hoàn tất các thủ tục thuê 2 xe đào bánh xích, H giao 2 xe đào bánh xích cho Trần Văn L như đã thỏa thuận để L sử dụng, khai thác kinh doanh. Thời gian đầu, Trần Văn L thực hiện nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi thuê thông qua tài khoản của công ty H. Nhưng sau đó L không trả nữa. Trần Văn L đã bán 2 xe đào (trị 490 triệu đồng mà không cho H biết). Tuy nhiên, L không trả nợ cho ngân hàng mà chi tiêu cá nhân. Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc yêu cầu Công ty A trả nợ, cũng như yêu cầu H phối hợp để kiểm tra tài sản cho thuê (2 xe đào), nhưng H không phối hợp mà tìm mọi cách trì hoãn, cam kết trả nợ thuê nhưng không trả và sau đó bỏ trốn khỏi địa phương. 

Vấn đề đặt ra trong vụ việc này là Trần Văn L đã phạm tội gì và Trần Văn H có phải là đồng phạm với Trần Văn L hay không?

Đứng tên vay tài sản ngân hàng nhưng bị người khác bán và chiếm đoạt ảnh 1Ảnh minh họa

Ý kiến bạn đọc

Trần Văn H và Trần Văn L là đồng phạm

Trong vụ việc này Trần Văn H và Trần Văn L là đồng phạm và đều phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175, Bộ luật Hình sự năm 2015). Bỡi lẽ, H đại diện công ty ký hợp đồng thuê 2 xe đào rồi giao cho L sử dụng khai thác. Trong quá trình L sử dụng, khai thác, H không có bất cứ động thái nào để kiểm tra tài sản, khi biết L bán xe, H đã thờ ơ, bỏ mặc hậu quả xảy ra, chỉ đi tìm chiếu lệ, rồi tìm mọi cách che giấu sự thật (xe đã bán) để đối phó với ngân hàng. H không thực hiện đúng cam kết và sau đó bỏ trốn. Do vậy, mặc dù H không cùng với L bán xe để chiếm đoạt nhưng cả hai phải chịu trách nhiệm hình sự số tiền còn nợ của ngân hàng.

Nguyễn Thị Hà (Ba Đình - Hà Nội)

Chỉ Trần Văn H phạm tội

Trong vụ này, việc Trần Văn L bán xe mà Trần Văn H không biết và L cũng không báo cho H biết, nên H và L không phải là đồng phạm với nhau. H đại diện công ty do mình làm giám đốc ký hợp đồng thuê 2 xe đào, sau đó không thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng mà bỏ trốn khỏi địa phương, nên theo tôi H phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, còn L được H giao xe sử dụng, kinh doanh, sau đó tự ý bán xe, chiếm đoạt tiền tiêu xài cá nhân, nếu có “bội tín” là “bội tín” chiếm đoạt tài sản đối với H.

Đỗ Hoàng Anh (Tiền Hải - Thái Bình)

Không phải là đồng phạm

Do Trần Văn H và Trần Văn L là anh em ruột nên việc L nhờ anh H đứng tên công ty của anh H thuê tài chính tại ngân hàng là 2 xe đào bánh xích, giá trị tài sản thuê là 1,2 tỷ trong thời hạn 60 tháng cũng là chuyện bình thường. L cũng đã có ý thức về việc trả nợ cho ngân hàng, bằng chứng là thời gian đầu, Trần Văn L đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi thuê thông qua tài khoản công ty của H. Sau đó L không trả nữa và đã bán 2 xe đào (490 triệu đồng) không trả nợ cho ngân hàng mà chi tiêu cá nhân. Việc này theo tôi nằm ngoài khả năng của anh H vì H không cùng tham gia bán 2 xe đào với L. Do đó H không phải là đồng phạm với L.

Đinh Trọng Thắng (Đông Triều - Quảng Ninh)

Bình luận của luật sư

Nội dung vụ án nêu trên không có tình tiết phức tạp, Trần Văn H đồng ý lấy danh nghĩa Giám đốc công ty A ký hợp đồng thuê 2 xe đào bánh xích, giao cho em ruột là Trần Văn L sử dụng, khai thác, kinh doanh. Sau một thời gian sử dụng, Trần Văn L đã bán 2 xe đào này lấy tiền tiêu xài cá nhân mà không trả nợ cho ngân hàng. Trần Văn L biết rõ chủ sở hữu của 2 xe đào là của ngân hàng, nhưng tự ý bán (không báo cho H biết) để trả các khoản nợ mà L vay trước đó. 

Căn cứ  vào nội dung vụ việc, chúng tôi cho rằng chỉ có Trần Văn L phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175, Bộ luật Hình sự năm 2015, còn đối với Trần Văn H, H không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bởi lẽ, theo Điều 175, Bộ luật Hình sự năm 2015 lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định có cấu thành cơ bản là: “Người nào có một trong những hành vi sau đây: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. 

Trong trường hợp này, Trần Văn H là người có hành vi thuê tài sản (2 chiếc xe đào) của ngân hàng có giá trị 1,2 tỷ đồng trong thời gian 60 tháng nhưng sau khi thuê H đã thỏa thuận để Trần Văn L sử dụng, khai thác kinh doanh để trả lãi cho ngân hàng thông qua tài khoản của công ty H. Hành vi thỏa thuận chuyển giao quyền sử dụng 2 chiếc xe đào giữa H và L là hợp pháp và L đã thực hiện đúng thỏa thuận với H nên đã trả lãi cho Ngân hàng A trong một thời gian.

Việc L nhận được tài sản của người khác (H) bằng các hình thức hợp đồng (L thỏa thuận với H sử dụng 2 xe đào để kinh doanh) và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp (L không sử dụng 2 xe đào để kinh doanh mà bán tiêu xài cá nhân) dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Qua đó cho thấy L biết 2 chiếc xe đào này H thuê của ngân hàng rồi chuyển giao cho L để sử dụng kinh doanh nhưng L không kinh doanh theo thỏa thuận với H mà tự ý (không cho H biết) bán 2 chiếc xe đào lấy tiền tiêu xài cá nhân dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho Ngân hàng A là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hành vi của L đã đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175, Bộ luật Hình sự.

Thấy L bán 2 xe đào nên H bỏ trốn nhưng hành vi bỏ trốn của H không nhằm mục đích để chiếm đoạt tài sản và H cũng không có hành vi sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho ngân hàng, nên hành vi của H không đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên H không phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

H không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng là do L không thực hiện đúng thỏa thuận với H, tự ý bán 2 chiếc xe mà H thuê của ngân hàng nên dẫn đến H không có khả năng trả lại tài sản cho ngân hàng, từ đó làm phát sinh tranh chấp giữa ngân hàng với H. Theo chúng tôi đó là quan hệ pháp luật dân sự.

Luật sư Phạm Thái Sơn (Văn phòng Luật sư Sơn Phạm)