Nhà hộ sinh đầu tiên ở Hà Nội và sự ra đời của “Cây đa nhà bò”

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

ANTD.VN - Ngày nay việc phụ nữ sinh con đã an toàn hơn trước kia rất nhiều. Ngoài các nhà hộ sinh thì hầu hết các bệnh viện đều có khoa sản và còn có các bệnh viện chuyên về sản. Nhưng nhà hộ sinh ở Hà Nội có từ bao giờ?

Nhà hộ sinh B (Nhà hộ sinh Cây đa nhà bò) ở phố Lò Đúc ngày nay

Nhà hộ sinh B (Nhà hộ sinh Cây đa nhà bò) ở phố Lò Đúc ngày nay

Từ bà mụ tới bác sỹ

Từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, đàn bà con gái ở Hà Nội cũng như các tỉnh thành khác khi sinh con đều do bà mụ đỡ. Thường mỗi làng, mỗi xã, mỗi phố sẽ có một bà mụ. Khi trong gia đình có người sắp sinh, họ sẽ mời bà mụ đến thăm thai và bằng kinh nghiệm, bà mụ sẽ dự đoán thời gian sinh nở cũng như đỡ đẻ cho sản phụ. Với các ca sinh nở bình thường, sản phụ và đứa trẻ mới sinh đều an toàn, nhưng gặp ca khó thì bà mụ bó tay. Do đó tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong rất cao. Theo thống kê năm 1928, tỷ lệ thai nhi bị chết lên tới 30% .

Khi Pháp chiếm Hà Nội và miền Bắc, tình hình dịch bệnh và người bệnh tử vong rất cao. Vì thế, năm 1902, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer ra quyết định thành lập trường École de Médecine de l’Indochine (Trường Y Bản xứ hay còn gọi là Trường Y Hà Nội, tiền thân của Đại học Y Hà Nội ngày nay). Cùng với trường là bệnh viện thực hành được xây dựng tại ấp Thái Hà.

Tuy nhiên, do Thái Hà khi đó ở vùng ngoại ô, không thuận tiện cho việc đi lại nên năm 1904 chính quyền bảo hộ quyết định xung công khu đất thuộc tu viện Carmel (do bà phước Aimec thành lập) đồng thời với bệnh xá của bà phước Antoine (ở trên đất Phủ Doãn từ năm 1888). Sau khi xung công, viên Toàn quyền mới là Paul Beau (nhậm chức thay Paul Doumer) ra quyết định thành lập Bệnh viện Bảo hộ (Hôpital du Protectorat - sau 1954 đổi thành Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức).

Nhưng vì xây trên đất Phủ Doãn xưa nên dân quen gọi là Nhà thương Phủ Doãn. Còn phần đất thuộc tu viện Carmel trở thành Nhà hộ sinh (Maternite Municipale) đầu tiên của Hà Nội (tiền thân của Bệnh viện Phụ sản Trung ương hiện nay). Paul Beau đã cử bác sỹ Le Roy des Barres phụ trách Nhà hộ sinh. Lần đầu tiên trong lịch sử, sản phụ ở Hà Nội sinh con theo kiểu phương Tây, nghĩa là gần đến ngày đẻ thì vào bệnh viện, nếu khó sinh thì bác sỹ có thể can thiệp bằng đẻ mổ.

Lớp học của các nữ hộ sinh Hà Nội năm 1935

Lớp học của các nữ hộ sinh Hà Nội năm 1935

Lớp nữ hộ sinh đầu tiên và hộ sinh tư ra đời

Theo Tạp chí Đông Dương, năm 1905 Nhà hộ sinh thành phố đã đón 250 sản phụ, năm 1906 là 474, số sản phụ tăng lên chứng tỏ các bà mẹ ở thành phố tin tưởng sinh con ở bệnh viện. Ngay từ khi Bệnh viện Bảo hộ thành lập thì Trường Y Hà Nội đã mở lớp đào tạo nữ hộ sinh người Việt Nam.

Tuy nhiên những năm đầu thế kỷ 20, phụ nữ có văn bằng tiếng Pháp rất hiếm vì hệ thống giáo dục phổ thông mới đang hình thành nên họ phải đào tạo theo kiểu không chính quy, nghĩa là học nghề tại bệnh viện. Tính đến năm 1914 đã có tổng cộng 237 y sỹ, y tá và nữ hộ sinh được đào tạo. Song số nữ hộ sinh chỉ có mấy chục người, nguyên nhân là nghề này bị “mang tiếng” vì dư luận đồn đại bác sỹ Le Roy des Barrdes hay “tằng tịu” với nữ hộ sinh. Ông này lại có nhiều vợ không chính thức người Việt, đa số trong đó lại làm nghề đỡ. Vả lại nghề hộ sinh không bằng nghề dạy học nên nhiều người học xong nếu lấy chồng là bỏ nghề.

Để khuyến khích phụ nữ theo học hộ sinh, chính phủ bảo hộ chỉ yêu cầu có bằng tiểu học (tức là có thể nói được tiếng Pháp). Người trúng tuyển được cấp học bổng năm thứ nhất là 6 đồng/tháng, năm thứ hai là 8 đồng/tháng. Tốt nghiệp đi làm ở bệnh viện công hưởng lương 25 đồng/tháng (1 tạ gạo thời điểm đó chỉ có 3 đồng) cao hơn lương y tá nhưng lại kém lương giáo viên tiểu học. Những chuyện thành kiến với nữ hộ sinh sau này dần lùi vào quá khứ và xã hội đã tin tưởng vào chuyên môn của họ.

Năm 1918, Hà Nội xuất hiện nhà hộ sinh tư đầu tiên mang tên Rồng Vàng ở số nhà 40 Rue Takou (nay là phố Hàng Cót). Người đứng ra mở là cô Tiến, một trong những học viên khóa 1916 của Trường Y Hà Nội - khóa được đào tạo chính quy đầu tiên. Nhà hộ sinh Rồng Vàng trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, lại do bác sỹ Le Roy des Barrdes “đỡ đầu”, mỗi khi gặp ca khó thì chính ông bác sỹ này trực tiếp xử lý nên thu hút rất đông sản phụ Hà Nội thuộc tầng lớp trung lưu.

Tầng lớp này không muốn đẻ ở Bệnh viện Phủ Doãn vì ngại nằm chung phòng với tiểu thương và dân nghèo, song họ lại không thể đẻ ở Bệnh viện Xanh Pôn (Saint Paul) - nơi chỉ dành cho gia đình quan lại, công chức cao cấp cả người Việt lẫn người Pháp. Tiếp sau cô Tiến đến cô Josephine người Pháp cũng mở nhà hộ sinh ở số 10 phố Đồng Xuân.

Số bác sỹ tốt nghiệp Trường Y Hà Nội ngày càng nhiều, có bác sỹ làm bệnh viện công, nhưng cũng nhiều bác sỹ mở bệnh viện tư, ví dụ như bệnh viện của bác sỹ Đặng Vũ Lạc, Hoàng Thụy Ba, Nguyễn Văn Chính… và các bệnh viện này đều có khoa sản. Trước khi trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội cuối tháng 8-1945, bác sỹ Trần Duy Hưng cũng có bệnh viện tư ở phố Bông Thợ Nhuộm và chính ông đã đỡ đẻ cho em gái mình. Cho đến năm 1945, khu vực nội thành không còn ai đẻ tại nhà, tất cả đều đẻ tại bệnh viện.

Bệnh viện Bảo hộ hay còn gọi là Nhà thương Phủ Doãn đầu thế kỷ 20 (Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức ngày nay)

Bệnh viện Bảo hộ hay còn gọi là Nhà thương Phủ Doãn đầu thế kỷ 20 (Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức ngày nay)

Tại sao lại có “Cây đa nhà bò”?

Sau 1954, ở 4 quận nội thành, mỗi khu phố có 1 nhà hộ sinh, tuy nhiên sản phụ vẫn có thể sinh con tại các bệnh viện. Tại các xã ngoại thành, các trạm y tế đều có người đỡ đẻ được đào tạo bài bản. Trong các nhà hộ sinh của Hà Nội thì nổi tiếng nhất là Nhà hộ sinh B mà người dân quen gọi là Nhà hộ sinh “Cây đa nhà bò”.

Nguồn gốc cái tên này là vào những năm 1920, khu vực này có nhiều bãi đất trống, hồ ao, nên Nhà hàng Weil chuyên bán thịt bò (ở đầu phố Hàng Giò, nay là phố Bà Triệu) đã mua bãi đất sát cây đa để thả bò trước khi giết mổ. Cạnh cây đa có 1 cái miếu nhỏ, cứ đến ngày rằm, mùng 1 là ở đây nghi ngút khói hương và người dân chen chúc khấn vái. Xung quanh khu vực này còn có vài gia đình Ấn kiều nuôi bò sữa, hàng ngày họ vắt sữa rồi mang lên phố bán.

Một số người Việt Nam thấy thế cũng bắt chiếc, nhờ có bò sữa họ đã xây được nhà. Cuối những năm 1930, hãng Hàng không Pháp quốc (Air France) mua lô đất này xây nhà, mở xưởng chuyên vẽ bản đồ bay, sau đó khu nhà lại thành phân xưởng cơ khí của hãng ô tô Berset. Và cái xưởng cơ khí này được xây dựng thành Nhà hộ sinh B vào năm 1960. Vì khu đất xưa nuôi bò, lại có cây đa nên dân chúng gọi luôn là Nhà hộ sinh “Cây đa nhà bò” cho dễ nhớ. Lại bởi bên cạnh đó có cái miếu, các gia đình thường ra đó thắp hương cầu khấn cho sản phụ “mẹ tròn con vuông” xin “thần cây đa” đừng bắt đứa bé đi, vì thế ngày nào nhà hộ sinh cũng có mùi hương và khói xông vào. Vì thế chính quyền buộc phải cho xây bảng tin ở phía ngoài để chặn người lễ bái.

Cùng với các nhà hộ sinh khác ở nội thành, Nhà hộ sinh B có nhiều y tá đỡ đẻ giàu kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn rất cao trở thành nơi sinh nở của hầu hết các sản phụ Hà Nội một thời.

Tin đọc nhiều