Ngộ nhận về thực phẩm hữu cơ

ANTD.VN - Những lo ngại về độ an toàn và giá trị dinh dưỡng của thực phẩm đang thúc đẩy ngày càng nhiều người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm với nhãn dán “hữu cơ”. Tuy nhiên, những sản phẩm này có thực sự là hữu cơ hay không, hay chỉ bán giá đắt đỏ còn chất lượng thì... vô biên?

Khó đáp ứng sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) cho biết, nông nghiệp hữu cơ (NNHC) có tốc độ tăng trưởng phi mã trong những năm gần đây. Năm 1999, diện tích đất NNHC toàn cầu chỉ khoảng 11 triệu ha, chiếm 0,2% diện tích đất canh tác thì đến năm 2015, con số này đã đạt mức 50,9 triệu ha, chiếm 1,1% tổng diện tích đất canh tác toàn cầu.

Tại Việt Nam, có khoảng 18 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn USDA (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ) – NOP và 12 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn EC 834/2007. Cả nước có khoảng 43.000 ha đất sản xuất NNHC, đứng thứ 56 thế giới và xếp thứ 3 trong khối ASEAN, sau Indonesia và Philippines.

NNHC ở Việt Nam chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực trồng trọt với sản phẩm được xuất khẩu đi thị trường Mỹ và châu Âu như chè, gia vị, rau củ quả…

Người tiêu dùng còn khá ngộ nhận cũng như hoang mang về thực phẩm hữu cơ

TS Nguyễn Đăng Nghĩa – Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn nông nghiệp Nhiệt đớinhận định, khó khăn khi triển khai sản xuất NNHC ở Việt Nam là tìm được nguồn đất trồng đạt tiêu chuẩn.

Nguyên nhân là do việc lạm dụng phân bón, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách… đã khiến hầu hết đất tại Việt Nam hiện tại có phản ứng chua, nghèo dinh dưỡng.

Do đó, rất khó có thể tìm được một diện tích đất trồng trọt có đủ tiêu chuẩn sạch để thỏa mãn các yêu cầu và quy chuẩn của Tổ chức các phong trào nông nghiệp hữu cơ quốc tế ( IFOAM), USDA và các tổ chức sản xuất hữu cơ khác. Hơn nữa, sản lượng phân hữu cơ sản xuất tại Việt Nam còn quá nhỏ so với yêu cầu của sản xuất thực tiễn, chỉ mới khoảng 3 triệu tấn.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Văn Linh – Tổng giám đốc Công ty CP hữu cơ Daito cho rằng, theo các tiêu chuẩn của IFOAM về nguyên liệu đầu vào trong canh tác hữu cơ thì việc sử dụng các loại phân bón tương đối hạn chế, căn cứ trên thành phần nguyên liệu và các phương pháp chế biến.

Theo ông Linh, ở Việt Nam, nguyên liệu tạo sự quan tâm nhiều nhất là phân gia súc nhưng cho tới nay, việc thu gom và xử lý số nguyên liệu trên còn nhiều vấn đề vướng mắc, trong đó quy trình công nghệ, mặt bằng, ô nhiễm môi trường… là những trở ngại lớn.

Ngoài ra, các chất phế thải từ công nghệ chế biến nông sản thực vật như khoảng 100.000 tấn bã cà phê do các nhà máy thải ra hằng năm và số lượng lớn bã dong riềng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, bã khoai mì ở các tỉnh miền núi phía Nam… cũng là nguồn nguyên liệu cần xử lý làm thức ăn chăn nuôi hoặc phân bón.

Thế nhưng, do độ ẩm rất cao (trên 65%) và đặc thù công nghệ chế biến nên đòi hỏi quy trình xử lý khó hơn và tốn kém. Mặc dù một số cơ sở sản xuất phân hữu cơ từng thử sử dụng làm nguyên liệu nhưng không kinh tế, đòi hỏi những điều kiện để xử lý khá công phu.

Ông Nguyễn Đại Thắng – Chủ tịch HĐQT Công ty CP trang trại Bảo Châu, cho rằng, nguồn thức ăn cho vật nuôi là khâu khó nhất trong chăn nuôi hữu cơ ở Việt Nam hiện nay.

Nguyên nhân là do các sản phẩm nông sản như gạo, ngô, đậu tương… đạt tiêu chuẩn để làm thức ăn cho vật nuôi hầu như rất ít hoặc có thể nói là chưa có.

Thực phẩm hữu cơ không giàu dinh dưỡng hơn

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, chi tiêu hàng năm cho thực phẩm và đồ uống hữu cơ tại quốc gia này đã tăng vọt từ 1 tỉ USD lên 28 tỉ USD trong vòng 20 năm qua. Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ nhìn ở một góc độ nào đó, là trào lưu tích cực, tuy nhiên, vẫn còn nhiều khái niệm về NNHC chưa được hiểu đúng.

Trên thực tế, chỉ những thực phẩm với nhãn dán “100% hữu cơ” mới đáp ứng được đầy đủ định nghĩa của USDA về thực phẩm hữu cơ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sản phẩm hữu cơ không tiếp xúc với thuốc trừ sâu hay thuốc trừ cỏ.

Về giá trị dinh dưỡng của sản phẩm hữu cơ, Trung tâm Chính sách Sức khỏe thuộc Đại học Stanford (Mỹ) đã thực hiện một so sánh lớn, giữa thực phẩm hữu cơ và thực phẩm thông thường. Nghiên cứu kết luận, không có bằng chứng nào khẳng định thực phẩm hữu cơ giàu dinh dưỡng hơn so với thực phẩm thông thường.

Cùng nằm trong tâm lý chung, nhiều năm trở lại đây, thực phẩm hữu cơ cũng đã và đang lên ngôi tại Việt Nam. Rầm rộ các cửa hàng kinh doanh thực phẩm hữu cơ như thịt, rau, củ quả, gạo, thậm chí là sữa hữu cơ… thu hút được người tiêu dùng. Giá bán của các loại thực phẩm dán nhãn hữu cơ thường rất cao, gấp 2-3 lần sản phẩm thông thường.

Trong khi đó, tại Việt Nam vẫn chưa có tổ chức nào chứng nhận sản phẩm hữu cơ cũng như chưa quan tâm đến quá trình sản xuất loại thực phẩm hữu cơ này như thế nào. Đến nay, các cơ quan hữu quan cũng chưa vào cuộc để kiểm soát loại sản phẩm này. Đáng nói, các sản phẩm hữu cơ đều được quảng cáo với những công dụng thần kỳ, đánh vào tâm lý người tiêu dùng trong bối cảnh thực phẩm an toàn đang là mối lo của toàn xã hội...