Lễ hội cung đình xưa và nay

ANTD.VN - Các triều đại phong kiến Việt Nam đã tổ chức những lễ hội sinh hoạt trong cung đình và lễ hội mang tính quốc gia. Lý do là trước khi làm vua, họ cũng là dân, vì thế tín ngưỡng, niềm tin dân gian đã ngấm vào họ từ bé. 

Lung linh lễ hội đèn Quảng Chiếu để cầu quốc thái dân an bên sông Hương

Cùng với các truyền thuyết, huyền tích, lễ hội dân gian, lễ hội cung đình cũng góp phần tạo ra “Tâm thức Việt Nam”, làm chỗ dựa vững chãi về tinh thần để đất nước phát triển. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, thời Vua Lê Đại Hành (năm 985) đã tổ chức các lễ hội nhân dịp sinh nhật vua (mùa thu, tháng bảy ngày Đinh Tỵ). mùa xuân năm 992 vua mở hội đèn ở lầu Càn Nguyên. 

Lễ hội cung đình dĩ nhiên là chỉ diễn ra ở kinh đô mà không thể ở vùng miền nào khác. Kể từ nhà Lý lập kinh đô Thăng Long cho đến khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô vào Huế, trong gần 800 năm tuy có đứt đoạn một thời gian do nội loạn nhưng gần như liên tục Thăng Long là kinh đô, vì thế các lễ hội cung đình đã diễn ra ở nơi này. Các lễ hội này liên quan đến nhà vua hay đích thân nhà vua đứng ra thực hiện. 

Trong lịch sử lễ hội cung đình phong kiến Việt Nam, vua chúa không chỉ tham gia với tư cách tham dự mà còn đứng vị trí chủ tế, ví dụ như các lễ hội về “Tứ trấn thần” (bao gồm: Cao Sơn, Bạch Mã, Linh Lang, Trấn Vũ), tế đàn Nam giao, đàn Xã tắc… để cầu mong đất trời, thần linh phù trợ cho kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên có 2 lễ hội lớn nhất về quy mô được dân chúng hưởng ứng và mang ý nghĩa tinh thần là hội thề ở đền Đồng Cổ và lễ hội đèn Quảng Chiếu. 

Đền Đồng Cổ thờ thần Trống Đồng, được Vua Lý Thái Tông cho xây dựng vào năm 1028 tại thôn Nam, Đông Xã phường Yên Thái xưa (nay tọa lạc tại số 353 phố Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ). Theo sử sách, đền Đồng Cổ vốn là ở Thanh Hóa, trên núi Đồng Cổ, năm 1020, Thái tử Lý Phật Mã (sau trở thành vua Lý Thái Tông) phụng mệnh vua Lý Thái Tổ đi đánh Chiêm Thành, khi dừng chân ở nơi này, ban đêm Thái tử mộng thấy thần núi hiện ra uy nghi như một võ tướng xin theo Thái tử đánh giặc.

Sau khi chiến thắng, tin vào mộng, Thái tử Phật Mã lễ tạ ở đền Đồng Cổ, rồi rước thần về Thăng Long để giữ nước, hộ dân. Sau đó chính thần núi Đồng Cổ đã báo mộng cho vua về việc ba vương là Vũ Đức, Đông Chinh và Dực Thánh làm loạn. Khi tỉnh dậy, vua đã cho đề phòng, quả nhiên là đúng như mộng. Để nhớ ơn thần, vua xuống chiếu dựng miếu thờ, cho đắp đàn, cắm cờ xí, treo gươm giáo và thề rằng: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”. 

Từ năm 1028 lễ hội này trở thành một ngày hội lớn của dân chúng Thăng Long. Cứ vào ngày 25-3 âm lịch hàng năm, bách quan triều thần đến đây để thề hiếu, trung. Sang đời Lê Thánh Tông, hội thề chuyển sang ngày 4-4 vì ngày 25-3 trùng ngày kỵ của vua cha. Đến triều Trần, vào năm 1228, vua Trần Thái Tông đã khôi phục hội thề ở đền Đồng Cổ.

“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Theo việc cũ của triều Lý, đến bấy giờ mới cử hành. Nghi thức như sau: Hàng năm ngày 4-4, tể tướng và trăm quan, hồi gà gáy đến chờ chực ngoài cửa thành, mờ mờ sáng tiến vào triều. Vua ngự ở cửa hữu lang điện Đại Minh, trăm quan mặc nhung phục làm lễ hai lạy rồi lui ra, đều đủ đội ngũ nghi trượng theo hầu ra cửa Tây kinh thành đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau thề rồi uống máu. Quan trung thư kiểm chính đọc lời thề rằng: “Làm bề tôi hết sức trung, làm quan phải trong sạch, ai trái thề này thần minh giết chết”.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến 

Đọc xong, quan tể tướng đóng cửa lại để điểm, người nào thiếu mặt thì phạt 5 quan tiền. Ngày hôm ấy, con trai, con gái đứng ở bốn phương ở cạnh đường để xem, cho là hội lớn”. Pháp tái chiếm Hà Nội năm 1947, đền bị lính Pháp phá nát chỉ còn hậu cung. Từ những năm 1990, dân phường Bưởi đã lần lượt trùng tu và hiện nay đền hoàn chỉnh, uy nghiêm và có tính mỹ thuật cao. Hàng năm vào ngày 4-4 âm lịch, dân phường Bưởi vẫn tổ chức hội thề trung -hiếu, vừa là duy trì cổ lễ vừa để nhắc nhở mọi người cố giữ tròn chữ hiếu, chữ trung.

Như vậy, từ một niềm tin dân gian, khi đem vào triều đình nó đã được nâng lên thành lễ hội với tầm quốc gia theo một lễ thức vô cùng trang nghiêm. Và để dân nghe được những lời thề cốt nhục ấy, vua đã cho phép dân chúng tham gia, vì thế, nó đã trở thành một lễ hội của cung đình thu hút hàng vạn lượt người dân Thăng Long tham gia với hai tư cách: tham gia và chứng kiến khiến lễ hội thiêng liêng hơn.

Một hội lớn khác trong cung đình xưa đó là hội đèn Quảng Chiếu. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Năm Canh Tý (1120), mùa xuân, tháng hai, mở hội đèn Quảng Chiếu” và “Vào năm Bính Ngọ (1126), mùa xuân, tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành xem”.

Tuy nhiên vì sách, văn bia bị giặc Minh đốt phá và đem về nước nên các nhà chép sử không thể ghi lại một cách đầy đủ, chỉ ghi lại những nét chính là lễ hội đèn được làm thành nhiều tầng, trên các tầng có pháo bông. Trên sông Tô Lịch cho diễn múa rối nước để dân xem. Lễ hội đèn Quảng Chiếu với mục đích là cầu cho vua khỏe mạnh sống lâu nhưng nó đã trở thành một lễ hội lớn của cung đình, thu hút đông đảo dân chúng kinh thành tham gia. 

Trước khi kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010, các nhà quản lý văn hóa mong muốn phục dựng lại lễ hội này, tuy nhiên do thiếu những nghiên cứu nên khó có thể hình dung về lễ thức và nội dung nên chưa thể phục dựng được. Hy vọng một ngày nào đó Hà Nội sẽ phục dựng được lễ hội hoành tráng này. 

Tin đọc nhiều