“Làm trai không sai bản xứ”

ANTĐ - Tôi ấn tượng với nhà thơ Đinh Đăng Lượng bởi câu thơ: “Chén rượu cuối chiều thay lời tiễn/Nghe nửa câu thơ đã nhói buồn”, lại ấn tượng hơn vì mọi người kể về ngôi nhà sàn của anh ở xóm Đồng Sông, xã Dân Hạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. Từ ngôi nhà sàn này có thể ngắm con sông Đà và dãy núi mờ ảo phía xa.

Nhà thơ Đinh Đăng Lượng trong vườn cây

Nhưng tiếc thay, khi đến, tôi đã không được ở ngôi nhà sàn cổ nữa, vì bất đắc dĩ gia đình anh đã phải bán đi. Anh kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người cuối cùng ghé thăm ngôi nhà sàn này trước khi bị dỡ bỏ. Khi đó, Trần Đăng Khoa, ngồi bên cửa sổ nhìn ra sông Đà, đọc bài của một nhà thơ Triều Tiên viết về ngôi nhà của mình, đại ý rằng, “Nhà của tôi-nhà của mây-nhà của gió...”. Giờ cứ nghĩ đến mà thấy tiếc, mà thấy nhớ ngôi nhà đã mấy đời ông cha để lại. Ngày đó, vì hai vợ chồng anh luôn đi công tác, nên không thể sửa sang lại được, ngôi nhà bị xuống cấp. Thêm nữa, vợ chồng anh cũng không kiếm được gianh để nộp theo lệ làng ngày ấy, nên buộc phải bán đi để gom tiền xây ngôi nhà gạch cho các con, vì chúng đang ngày một lớn.

 

Nghe đến đây, tôi chợt hỏi suốt 35 năm công tác, lại làm đến chức Trưởng ban tổ chức tỉnh, sau đó còn hai năm giữ chức Chủ tịch mặt trận trước khi về hưu, sao anh không có một ngôi nhà ở trên thành phố, mà lại về mảnh đất quê xưa. Không ngờ, điều thắc mắc của tôi đã động chạm tới một cõi thiêng của tâm cảm trong anh, vì người Mường luôn ghi tạc lời của ông cha truyền lại: “Làm trai không sai bản xứ”. Nghĩa là đi đâu thì đi, nhưng cuối đời phải về lại cái nơi mình đã sinh ra, và chết hãy nằm tại quê hương. Nhà thơ đã sống đúng như thế. 

Hơn hai mươi năm làm giám đốc nhà máy giấy Hòa Bình, anh đều đi về hàng ngày bằng xe máy. Sau này làm quan chức đầu ngành của tỉnh, có tiêu chuẩn ô tô, nhưng anh vẫn đi xe máy hơn chục cây số về nhà, ăn cơm vợ nấu và trồng cây quả trong vườn. Có lẽ chất Mường gốc gác, thâm căn cố đế ấy đã làm cho thơ Đinh Đăng Lượng có chất riêng, hiển hiện màu sắc văn hóa vùng Mường Thàng, nơi quê cha. 

Trong nhiều bài của tập thơ chọn của Đinh Đăng Lượng, ta có thể bắt gặp nhiều câu rất Mường như: “Câu thương bắc ngang đầu suối/Lời yêu giăng dọc sườn nương”(Lời mẹ hát ru); hay “Anh nắm tay em có hơi ấm nắng mặt trời/Anh ngắm mắt em nhìn như tắm nước đầu nguồn sông Bôi/Hoa đẹp của anh ơi.../Trái thơm của anh ơi...” (Trước ngày cưới); hoặc “Dòng sông quê ta thơm lừng trước cửa/Trắng cơm mường Vó, xanh lúa Mường Vang” (Về một dòng sông)... Lan man chuyện thơ ca, tôi bỗng nhớ tới chuyện anh có lần bị nhà thơ Hữu Thỉnh đột nhiên “bắt” lên ngồi chủ tịch đoàn, trong Hội nghị viết văn trẻ lần thứ 2, năm 1983, tại Hà Nội. 

Anh cười khì khì vì nhớ như in cái ngày xưa, sao mà run thế, khi nghe nhà thơ Hữu Thỉnh gọi oang oang tên mình trên loa đài. Anh phải lên ngồi chủ tịch đoàn, thay nhà văn Sa Phong Ba dân tộc Tày, đại biểu Sơn La, vì bị ốm không về dự được. Thế là cây bút trẻ Đinh Đăng Lượng, giải A thơ tỉnh Hà Sơn Bình khi ấy, được gọi lên thế chỗ. Hoa mắt, chân run như gà mắc tóc, Đinh Đăng Lượng có cảm giác lần đầu tiên rời núi xuống biển vậy. Mênh mang, sóng sánh, ào ạt đến ngỡ ngàng.  Tôi chợt phì cười vì nhớ từ khi làm Trưởng ban Tổ chức tỉnh năm 2001, nhà thơ còn kiêm thêm chức Phó Chủ tịch Hội Văn Nghệ Hòa Bình, và còn hoạt động thêm mấy việc khác nên anh thường sử dụng mấy cái cặp da liền để phân bố tài liệu cho đỡ lẫn lộn. Việc nào ra việc nấy, bản báo cáo nào thuộc cuộc họp của ban ngành nào là anh cũng sắp xếp vào mỗi cặp riêng. Vậy nên, hôm nào phải đi họp mấy cuộc liền là hôm đó trong tay anh, rủng rỉnh những cặp là cặp. Nhưng anh không bao giờ bị nhầm cặp cả. Thơ anh cũng đậm phong vị Mường là vì thế. Đi tới đâu là anh làm thơ và bao giờ cũng liên tưởng về cái xứ cồng chiêng của mình.  

Anh quan niệm đúng như thơ anh đã viết, cha Mường đẻ con Mường phải thương lấy nó. Vậy đó, tôi lại bất ngờ khi trong tay là bài thơ “Tiếng nói”, in trên tạp chí Văn Nghệ Hòa Bình, tháng 4-2013. Nhà thơ lên tiếng gọi con cháu hãy về quê: “Này con trai, con gái/Ơi cháu nội, cháu ngoại/Về nhà mình rồi nói tiếng mình đi” và nhà thơ còn viết thêm: “Tiếng của ông cha để lại/ Cho nhà còn cột cái/Cho Mường còn cây si”. Thế đó, nhà thơ chỉ sợ con cháu lên phố ở sẽ chẳng còn nhớ đến tiếng Mường của ông cha, nơi đã nuôi dưỡng chúng bằng hạt lúa hạt ngô của xứ sở núi sông, và lớn lên trong lời ru Mường ngọt ngào tựa chim hót vườn nhà.