Ngân hàng cung cấp thông tin tài khoản cho cơ quan thuế khi có thỏa thuận

ANTD.VN - Dự thảo Luật Quản lý thuế đề cập ngân hàng thương mại (NHTM) định kỳ cung cấp thông tin tài khoản của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế. Điều này khiến nhiều ý kiến bày tỏ lo ngại sẽ tạo thêm “gánh nặng” cho các ngân hàng.

Việc ngành Thuế yêu cầu cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng gây ra nhiều ý kiến trái chiều

Lo ngân hàng làm không xuể

Cụ thể, Dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất quy định NHTM có trách nhiệm cung cấp nội dung giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản của người nộp thuế trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thuế.

Đối với việc quản lý, thu thuế các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, Dự thảo quy định Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức thanh toán có trách nhiệm khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.

Bày tỏ lo lắng về quy định trong dự thảo, đại diện một NHTM Nhà nước cho rằng quy định này đang “chất” thêm “gánh nặng” cho các ngân hàng. “Chúng tôi rất mong ban soạn thảo xem xét lại quy định ngân hàng phải cung cấp nội dung giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản người nộp thuế. Nếu quy định như vậy thì phạm vi yêu cầu quá rộng, trong đó ngân hàng phải cung cấp toàn bộ thông tin giao dịch sẽ phát sinh thêm rất nhiều việc, các ngân hàng không làm xuể” - vị này nói.

“Việc cơ quan thuế yêu cầu cung cấp các thông tin về tài khoản, giao dịch ngân hàng của người nộp thuế là phù hợp. Tuy nhiên, cần quy định rõ trường hợp nào cơ quan quản lý thuế có quyền yêu cầu cung cấp các thông tin để tránh dẫn tới lạm quyền, áp dụng tùy tiện trong thực tế”.

Luật sư Trương Thanh Đức (Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico, Chủ nhiệm CLB Pháp chế ngân hàng) 

Cũng cùng chung băn khoăn này, trong văn bản góp ý về Dự thảo, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng quan hệ giữa NHTM và người nộp thuế là quan hệ dân sự. Khi ký kết hợp đồng, ngân hàng cần phải cho khách hàng của mình biết các trường hợp thông tin của họ sẽ được cung cấp cho bên thứ ba.

Vì vậy, theo VCCI, các trường hợp này cần phải hợp lý và rõ ràng để bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và bảo đảm ngân hàng không phải chịu gánh nặng tuân thủ yêu cầu này của cơ quan quản lý thuế.

VCCI cũng cho rằng quy định này chưa bảo đảm tính minh bạch ở chỗ không rõ trong các trường hợp nào thì cơ quan quản lý thuế có quyền yêu cầu NHTM cung cấp các thông tin này và căn cứ vào nhu cầu quản lý Nhà nước cụ thể là gì. “Nếu quy định mở như hiện nay thì có khả năng hiểu theo nhiều cách khác nhau, việc áp dụng có thể rất tùy tiện trên thực tế”, văn bản góp ý của VCCI cho biết.

Theo luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico, Chủ nhiệm CLB Pháp chế ngân hàng, đây là một quy định không mới, đã được thể hiện trong luật, cụ thể hóa trong Thông tư liên tịch giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính. Theo đó, từ chi cục thuế địa phương trở lên đã có đủ thẩm quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin tài khoản của khách hàng là người nộp thuế mở tại ngân hàng.

Trên thực tế, hoạt động cung cấp thông tin tài khoản của khách hàng khiến các ngân hàng thương mại tốn nhiều công sức, thời gian nhất, số lượng thông tin cung cấp cũng nhiều nhất từ trước tới nay. Các ngân hàng cũng đã thường nhận được văn bản của các chi cục thuế đề nghị ngân hàng cung cấp thông tin tài khoản của khách hàng.

Dù vậy, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng đây là một quy định đúng và hợp lý. “Bởi chức năng quan trọng nhất của cơ quan quản lý thuế là thu thuế và chống trốn thuế. Về nguyên tắc chung, tất cả các cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải có trách nhiệm giúp đỡ cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ phòng chống tội phạm, gian lận” - luật sư Trương Thanh Đức nói. Cũng theo vị chuyên gia này, từ trước tới nay, không chỉ riêng cơ quan thuế, có rất nhiều đơn vị được phép yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin như công an, cơ quan thi hành án, thẩm phán, cơ quan thanh tra - giám sát của Ngân hàng Nhà nước...

Cơ quan thuế nên trả phí cho ngân hàng

Đề xuất giải pháp, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng cần thay đổi, tìm một phương án mới hoặc dành một khoản chi phí bù trừ cho thời gian, công sức mà các ngân hàng bỏ ra. Chẳng hạn như cơ quan thuế hay một tổ chức, cá nhân muốn tra cứu thông tin tài khoản, thông tin đăng ký giao dịch bảo đảm, hồ sơ thế chấp sẽ phải trả phí cho phía ngân hàng...

Lý giải điều này, vị chuyên gia cho rằng trong bối cảnh số lượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh gia tăng qua từng năm; quy mô doanh nghiệp, quy mô giao dịch cũng tăng với tốc độ chóng mặt mà ngân hàng phải thực hiện tra cứu thông tin không công, dù là phục vụ Nhà nước thì cũng không hợp lý. “Không chỉ phải thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, mà thậm chí ngân hàng còn phải chịu chế tài trong trường hợp cung cấp thông tin không chính xác nhưng lại không được hưởng bất kỳ quyền lợi nào” - luật sư Trương Thanh Đức nói.

Về vấn đề cung cấp thông tin giao dịch cụ thể của khách hàng, theo các chuyên gia chỉ nên yêu cầu trong những trường hợp đặc biệt. Vì thông tin giao dịch của khách hàng như thanh toán, cho - tặng, vay - mượn... thuộc về bí mật của khách hàng. Nếu các thông tin này dễ dàng được ngân hàng cung cấp cho cơ quan thuế thì không hợp lý. Quy định này chỉ nên áp dụng trong trường hợp người nộp thuế là đối tượng đang trong quá trình điều tra của cơ quan thuế, hải quan. 

Về quy định ngân hàng phải khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam, theo các chuyên gia là hợp lý. Vì khi đã có quyết định của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc quyết định của cơ quan tư pháp thì nghĩa vụ của tất cả các công dân, pháp nhân, kể cả cơ quan Nhà nước, sẽ phải thi hành quyết định đó.

Ngân hàng chỉ phối hợp với cơ quan thuế trên cơ sở thỏa thuận

Tại văn bản trả lời về dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước cho rằng việc quy định thêm trách nhiệm phối hợp trong quản lý thuế là không phù hợp với chức năng và các mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước. Qua rà soát kinh nghiệm quốc tế, Ngân hàng Nhà nước chưa thấy có quốc gia nào có quy định tương tự đối với Ngân hàng Trung ương.

Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định việc phối hợp thu thuế, thu khác thuộc ngân sách Nhà nước dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa NHTM và cơ quan thuế. Trong quan hệ phối hợp thu này thì NHTM là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ liên quan tài khoản của cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế. Theo đó, trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý thuế, xử lý, đối soát dữ liệu, truyền nhận thông tin, hỗ trợ người nộp thuế… quy định tại khoản này phải do NHTM và cơ quan thuế thỏa thuận.

Về việc ngành thuế đề xuất NHTM tự động khấu trừ tiền trên tài khoản của khách hàng để nộp thuế, Ngân hàng Nhà nước cho rằng, nếu làm điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp về tài sản của tổ chức, cá nhân được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận và không phù hợp với trách nhiệm bảo vệ quyền lợi khách hàng.

Theo pháp luật hiện hành quy định, NHTM chỉ được cung cấp thông tin theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan Nhà nước trong quá trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án... “Việc định kỳ cung cấp thông tin tài khoản, cung cấp thông tin của người nộp thuế quy định tại khoản này có phạm vi quá rộng và có thể dẫn tới việc lạm dụng quy định trong quá trình thực thi, đồng thời không phù hợp với yêu cầu về bảo mật thông tin quy định tại khoản 2, khoản 3, Điều 14, Luật Các tổ chức tín dụng”, Ngân hàng Nhà nước cho hay.