Kiếp mưu sinh của những người phụ nữ chèo đò

ANTĐ - Ở cảng cá Quy Nhơn (phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) mỗi ngày có hàng trăm chiếc tàu công suất lớn thay nhau cập cảng bốc dỡ cá. Nơi đây, nhiều năm qua vẫn  những con đò chòng chành, nhỏ bé với gánh nặng mưu sinh. Họ hầu hết là phụ nữ, trót gắn bó với chiếc xuồng, chiếc ghe, với nắng mưa, gió bão khắc nghiệt để kiếm chút tiền công ít ỏi nuôi gia đình.
Kiếp mưu sinh của những người phụ nữ chèo đò ảnh 1

“Thân cò” chèo đò nơi hải cảng

Chẳng ai ở cảng cá Quy Nhơn còn nhớ những chiếc đò ngang xuất hiện lúc nào. Chỉ biết, bao nhiêu năm qua, giữa sóng, gió, những con đò bé tí teo vẫn lặng lẽ đưa người lên tàu, vào bờ. Mấy chục con đò tập trung lại với nhau tạo nên một xóm đò, một bến đò nhỏ giữa cảng cá tấp nập, sầm uất. Không đẹp và lãng mạn như trong thơ, nhạc, hơn 30 người phụ nữ chèo đò nơi đây vất vả giữa ngược xuôi con sóng. Giấu đi vẻ mềm yếu, các bà, các mẹ, các cô lái đò khoác lên mình lớp quần áo dày cộp, phơi người trong nắng gió để có được khoản thu nhập, chăm lo cho gia đình.

Ngồi trò chuyện với tôi, chị Nguyễn Thị Kim Loan (SN 1981) cho biết: “Ở đây, dân chèo đò phân chia rõ ràng để khỏi mất lòng nhau. Giống như xếp hàng mua vé vậy, đò của ai đến trước tại bến thì sẽ được đón khách trước. Cứ theo thứ tự lượt về bến mà xoay vòng. Một lượt chèo, người lái đò được trả 5.000 đồng/người. Người nào đến lượt chèo đò mà có nhiều khách thì khoản thu có phần khá hơn. Trung bình mỗi người chèo đò kiếm được 70-100 nghìn  đồng/ngày. Những ngày “mở biển”, số người ra vào nhiều thì khoản thu nhập cũng cao hơn đôi chút”.

Những lúc thời tiết bình thường là thế, nhưng khi bão lớn, ghe thuyền đều phải chạy vào vịnh để tránh bão, sức đàn bà cũng phải chèo đò chạy đi và nằm giữ đò luôn trong đó. Những lúc chân vịt vướng phải rác, những người phụ nữ này cũng phải nhảy xuống nước gỡ ra, đò hư hỏng gì họ cũng đều phải biết sửa chữa. Chị Loan cho biết: “Có những lần, đang chèo đò chưa được nửa đoạn đường thì trời mưa tầm tã, sóng gió ù ù, người lạnh buốt, tê cóng nhưng cũng phải cố gắng mà chèo. Chưa hết, rồi lại có những lúc trời mưa gió, đò lại dở chứng hư hỏng, chị em chúng tôi cũng phải đội mưa để sửa chữa. Vì hoàn cảnh, vì công việc nên nhiều lúc một, hai giờ sáng mới về đến nhà”. 

Hơn 20 năm đưa đò, bà Nguyễn Thị Phương (SN 1963), đặc tả công việc của mình bằng một chữ “khổ”. Tựa tay lên mái chèo, bà tâm sự: “Nhà có 4 đứa con. Mỗi ngày đi chèo đò về, đứa thì xin mẹ tiền mua bút, thước, đứa lại xin tiền học. Rồi thì bữa cơm hàng ngày, thuốc thang khi chồng và con đau ốm, tiền lễ nghĩa, rồi dựng vợ gả chồng cho con đều nhờ cái bến đò này mà ra. Vậy nên, nhiều lúc, chị em tôi tặc lưỡi: Khổ thì kệ! Xấu cũng kệ! Miễn sao lo cho gia đình được no cái bụng, con cái được học hành đến nơi đến chốn”.

Số đông các bà, các cô, các chị lái đò ở đây đều ở khu Hải Minh (khu vực 9, phường Hải Cảng). Mỗi ngày, họ giong đò vượt gần một cây số để về với cảng Quy Nhơn bằng chính sức của đôi tay. Rồi cũng bằng đôi tay ấy, cô lái đò tiếp tục hành trình đưa khách ra, vào bờ. Đến tối mịt, những “thân cò” này lại dốc hết sức cho những nhịp chèo cuối ngày, trở về nhà. Rồi đêm về, họ rệu rã, đau nhức. Tất cả những dấu hiệu ấy lặp đi lặp lại mỗi ngày, mỗi tháng. Để rồi bây giờ, đơn vị đo đếm hành trình của họ đã là năm. Cô lái đò ít tuổi nghề nhất ở cảng cá là 10 năm. Người dày dặn gió sương hơn đã lên đến 30 năm.

Không chỉ hoạt động ban ngày, đêm đến, bến đò vẫn không thiếu tay chèo. Nhưng số người làm việc buổi đêm có phần ít ỏi hơn. Bà Nguyễn Thị Cúc (SN 1965, quê ở xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước), người có nhà ở xa cảng nhất, cũng là người thường xuyên chèo đò đêm ở nơi này. Không thuê nhà trọ, bà chọn cách ngủ ngay tại con đò. Bao nhiêu năm qua, giấc ngủ của bà chòng chành trên sóng nước. “Tôi ngủ trên thuyền với một cái màn khi không có người gọi đò.

Nếu trời mưa hoặc hôm nào sương đêm lạnh quá, tôi sẽ lên ghe đang neo ở cảng mà trú nhờ. Những chủ ghe này biết được hoàn cảnh của tôi nên họ lúc nào cũng vui vẻ cho ngủ cả. Nhờ trời và cũng nhờ biển, tôi hầu như chẳng mấy đau ốm để có thể làm việc mỗi ngày và nuôi gia đình”, bà Cúc lạc quan kể về công việc gắn liền với sóng, gió của mình.


Dâng tuổi xuân nơi sóng nước

Nói về những vất vả, hiểm nguy của nghề, chị Loan hóm hỉnh đúc kết: “Chị em tôi ngày nào cũng tập thể dục bằng bơi, bằng chèo đò cả. Giờ, đôi tay khỏe là niềm tự hào của chúng tôi. Nhiều khi nghĩ mình chẳng còn là người đàn bà chân yếu tay mềm như người ta nói, mà đã dạn dày sương gió, đối mặt với bão táp như những người đàn ông đi biển ngoài khơi kia. Nắng gió trên biển luyện con người trở nên cứng cáp nhưng cũng lấy đi nhan sắc và tuổi xuân. Mình khỏe đấy nhưng cằn cỗi, khô ráp lắm”.

Nhìn làn da cháy đen vì nắng, bàn tay,  thô ráp bởi cầm chèo, ghì đò của những “thân cò” nơi đây, chúng tôi không khỏi ái ngại. Thật khó giữ gìn được vẻ đẹp bởi đôi bàn tay phải thường xuyên kéo ghì chèo ngấm nước biển. Bà Cúc vốn là dân chèo đò từ cách đây hơn 20 năm đến nay bà đã đổi mấy chiếc đò. Bà cho biết, 100 đến 150 nghìn đồng mỗi ngày bà kiếm được trở thành thu nhập chính trong nhà gia đình nghèo có chồng bệnh tật, hai con nhỏ đang tuổi ăn học. “Nghề chèo đò thì lấy đâu ra thời gian mà làm đẹp như bao người khác.

Tôi còn đỡ, chứ nhiều phụ nữ sức yếu, không chèo nổi cả ngày nên tranh thủ chèo đò rước khách buổi sáng rồi chiều tìm công việc đan lưới, bán cá kiếm thêm. Mình nghèo mà, tranh thủ kiếm được đồng nào hay đồng đó. Đồng tiền mình kiếm được là mồ hôi nước mắt của mình nên khổ thì khổ nhưng cũng có niềm vui”.

Ngồi trò chuyện, chúng tôi nghe các bà, các cô, các chị chèo đò tiếp lời nói chuyện, rằng ai cũng có một bệnh kinh niên như đau nhức xương khớp, cột sống, nhức đầu… Khi vào việc họ đều cố chịu cho qua, song khi nghỉ ngơi lại thấy người đau nhức, bệnh phát ra nặng hơn. Có những phụ nữ trẻ chèo đò, nhưng nắng nôi, mưa gió làm họ già hơn tuổi thật của mình nhiều lần. Bà Phương tâm sự: “Ở đây, nhiều người lái đò khoảng hai lăm, hai bảy tuổi nhưng trông già lắm.

Tất cả cũng vì gió sương trên những chuyến đò chòng chành xuôi ngược này. Nhiều đứa kể với tôi, nhiều khách đò lạ, chỉ tầm tuổi tụi nó nhưng lại gọi tụi nó là cô với vẻ kính trọng dành cho người lớn tuổi. Những lần như thế, tụi nó cũng ái ngại lắm. Đôi lúc cũng chạnh buồn vì biết tuổi xuân mình qua nhanh quá”. 

Ở cảng cá này, chúng tôi được nghe, được cảm nhận về những chuyến đò thấm đẫm mồ hôi của những “thân cò” lặn lội này. Làn da sạm nắng, lam lũ, vất vả nhưng nụ cười của họ vẫn rạng ngời, hào sảng như chính con người họ vậy. Chúng tôi cảm nhận trong đó có cả niềm tin vào cuộc sống và chăm chút những hi vọng cho tương lai của con cái. “Khổ mấy tôi cũng chịu được, miễn cho con học hành đến nơi đến chốn. Nhìn con cái lớn lên, học hành đàng hoàng, sau này có công ăn việc làm ổn định, tôi thấy không uổng phí những tháng ngày cực nhọc chèo đò. Biết đâu sau này con cái nên người, mình lại sướng thì sao”, bà Phương cho biết.

Rời cảng Quy Nhơn trong cái nắng như thiêu như đốt, ngoảnh đầu nhìn lại biển, những chiếc nón lá của những “thân cò” lấp lóa trong nắng chói chang. Chúng tôi ám ảnh mãi câu nói của bà Cúc: “Người xưa nói về người phụ nữ rằng, thân cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non. Còn bây giờ, chị em chúng tôi đúng là thân cò lặn lội ngày đêm, tuổi xuân qua sớm mà không thấy buồn”.