Khát vọng chấn hưng đất nước (Kỳ cuối): Huyệt đất "phượng chủy"

ANTD.VN - Dân gian có câu: “Bầu già, cà đỏ đít, mướp xơ/Đem sang chợ Xốm mà vơ lấy tiền”, ý nói về làng Đa Sỹ giàu có, trù phú. Nhưng không chỉ vậy, Đa Sỹ còn nổi danh với khoa bảng, nhất là họ Hoàng với “một bồ Tiến sĩ”.

Từ chỉ Đống Dấm đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa

Có một câu chuyện về huyệt mạch ở làng Đa Sỹ, phường Kiến Hưng (Hà Đông - Hà Nội) cũng khá giống với 2 làng Tiến sĩ nổi tiếng của nước ta là Mộ Trạch (Hải Dương) và Kim Đôi (Bắc Ninh). Câu chuyện dưới đây là những điều liên quan đến thuật phong thủy và tâm linh nên quý độc giả cũng chỉ nên xem đây như một giai thoại, hoặc một câu chuyện tham khảo.

Nhà nho tầm long

Tiến sĩ Hoàng Thế Xương, hậu duệ của danh sĩ Hoàng Trình Thanh, cho biết: “Cụ tổ họ Hoàng tự là Phúc Xuyên tiên sinh có gốc ở làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ đã chọn đất, tậu đất xây dương trạch, mở trường dạy học; đặt âm phần ở xứ Đống Dấm”.

Câu chuyện xưa cũ ấy, đã cách ngày nay khoảng 600 năm có lẻ. Đống Dấm, nay là từ chỉ Đống Dấm ở làng Đa Sỹ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Gắn với câu chuyện về phong thủy vùng đất hiếu học này còn là bao nhiêu những lý thú lẫn bí mật về thuật địa lý thần kỳ. Ông Xương cho chúng tôi xem các tư liệu cũ, như “Đa sĩ Hoàng tông gia phả, Truyện các quan Trạng” có nói việc cụ tổ Phúc Xuyên nhờ có “thần tâm thánh nhãn” mà tìm được huyệt đất đẹp.

Ở ngay gần làng Lương Xá, có vùng đất tên là Duyên Ứng rất đẹp nhưng cụ không biết nên táng ai ở đó. Đương lúc băn khoăn, thì nghe tin có người con dâu họ Đặng chết cóng ngoài đồng.

Cụ chạy ra thì mối đã xông kín thi thể. Vùng đất đẹp không thể dùng được nữa, cụ phải khăn gói đi tầm long ở một nơi khác. Thấy đất Huyền Khê sáng láng khác thường, có thể là nơi dụng võ lâu dài nên cụ Phúc Xuyên bỏ tiền tậu đất ruộng của một người trong làng là Nguyễn Văn Phàn để mở trường dạy học.

Từ chỉ Đống Dấm ở làng Đa Sỹ

Thế đất mỏ phượng

“Lúc ấy vẫn chưa có tên là Đống Dấm. Vì dân làng thưa thớt, đồng không mông quạnh nên các học trò thường phải đốt lửa ở lớp học cụ Phúc Xuyên cho ấm. Từ ấy, dân làng gọi là Đống Dấm”, ông Xương cho hay. Tiến sĩ Hoàng Thế Xương diễn giải thêm: Khi đã có đất tốt thì phải táng tổ tiên tại đó. Cụ Phúc Xuyên mới huy động người dùng tre và rơm thiêu rụi một gốc cây cổ thụ ở Đống Dấm và đặt âm phần tại chính nơi được coi là huyệt đất.

Huyệt đất đẹp ấy vốn mang tên là Huyền Khê có thế “phượng chủy”, tức mỏ con chim phượng. Gia phả chi họ Hoàng Trung Phú có ghi: “Đó là nhờ sự linh ứng của thế đất, với tột đỉnh của 3 nguồn sáng, dồi dào của 4 dòng nước Tam quang cập đệ - Tứ trụ thủy lưu ứng với 4 chi họ Hoàng, khởi đầu từ 4 con trai của Hoàng Trình Thanh, trong đó có 3 chi trụ lại và trường tồn ở Huyền Khê”.

Mấy năm sau vợ chồng Phúc Xuyên sinh hạ được Hoàng Trình Thanh và dòng họ Hoàng bắt đầu phát khoa danh sự nghiệp. Ông Xương nói về Đống Dấm - đất phát tích khoa bảng dòng họ Hoàng rằng: “Đống Dấm là nơi dấm ngọn lửa hồng, là nơi dấm những mầm non nhân tài của Huyền Khê hàng trăm năm về trước”. 

Ở đền thờ họ Hoàng làng Đa Sỹ còn vẹn câu đối treo ở hậu cung: “Chấn cố hữu quang trâm hốt truyền gia bằng tổ ấm” - tức: “Một nhà vẻ vang, hào quang vang động các đời, là nhờ vào giá trị tổ tiên để lại”. GS. Lê Văn Lan cho rằng, ở đây đã có sự khẳng định về một niềm tôn kính mãnh liệt, rằng sự hiển đạt của một họ tộc sở dĩ có được, là do tổ tiên biết gây dựng và lưu truyền các giá trị.

Một tấm bia cổ còn lại ở từ chỉ Đống Dấm

“Một bồ Tiến sĩ”

Có được huyệt đất tốt, dòng họ Hoàng ở Đa Sỹ bắt đầu phát phúc. Khởi đầu là Tiến sĩ Hoàng Trình Thanh, được sử gia Phan Huy Chú trong phần “Nhân vật chí” của bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” xếp chọn là 1 trong 10 nhà Nho có đức nghiệp đời Lê Sơ. Họ Hoàng cũng nổi danh như họ Nguyễn làng Kim Đôi ở Bắc Ninh và họ Vũ ở Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương. Những dòng họ này đều được ví có “một bồ Tiến sĩ”, minh chứng thông tỏ cho thế đất phát khoa danh và tinh thần hiếu học.

Ông Xương nói rằng: “Từ đời Hoàng Trình Thanh trở đi suốt gần 300 năm, họ Hoàng phát phúc cả về khoa bảng cùng công danh sự nghiệp. Một vị lưỡng quốc Trạng nguyên, 7 vị Tiến sĩ; chức thì từ Thượng thư đến Chủ sự... Tổng cộng có đến 24 đời con cháu vinh hiển đỗ đạt”.

Có thể kể ra đây một số danh sĩ tiêu biểu để độc giả được biết. Cháu của Hoàng Trình Thanh là Hoàng Khắc Minh đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn 1484, làm quan đến chức Bồi tụng Tả Thị lang, sau thăng đến Thượng thư bộ Lễ. Con trai Hoàng Khắc Minh là Hoàng Nghĩa Phú đỗ Trạng nguyên năm Hồng Thuận thứ ba khoa Tân Mùi 1511.

Với tài học của quan Trạng nguyên cùng phẩm chất biết liêm biết sỉ của nhà Nho chính trực, ông không bao giờ một mình vào triều yết kiến, nhưng rất cung kính giữ nghiêm phép tắc triều đình, vì vậy nhà vua rất trọng dụng và ông được thăng tiến vượt bậc không theo thứ tự. 

Vua nhà Minh cũng đã từng khen ngợi Hoàng Nghĩa Phú là con người thông thái, có công tích xứng phong lưỡng quốc Trạng Nguyên. Con trai ông, Tiến sĩ Hoàng Tế Mỹ đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất 1538, làm quan Quốc Tử giám Tế tửu, tước Trân Khê hầu.

Theo thống kê của các nhà sử học, dưới thời phong kiến từ đời nhà Lý đến hết nhà Nguyễn nước ta có 1.906 người đỗ Tiến sĩ và 56 người đỗ Trạng nguyên thì riêng Đa Sỹ đã có 11 Tiến sĩ và 1 Trạng nguyên. Lại tính riêng họ Hoàng ở Đa Sỹ đã có đến 11 người.

“Chẳng biết có phải vì do thế đất “mỏ phượng” hay do tâm đức cha ông mà họ Hoàng phát khoa bảng “một bồ Tiến sĩ”. Sinh thời, danh sĩ Hoàng Trình Thanh đã góp phần không nhỏ vào công cuộc trị bình đầu thời Lê, ông cũng là tấm gương sáng cho con cháu noi theo”, PGS.TS Đỗ Thị Hảo, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội nói.