Hát rối để răn dạy người đời

ANTĐ - “Nhất vui là hội Phủ Giầy/Vui thì vui vậy, chẳng tầy chùa Bi”. Cái vui ấy chính là nhờ một loại hình nghệ thuật độc đáo đã có sức sống gần 500 năm.

Những tiết mục hát rối mang nội dung ca ngợi quê hương đất nước,
nhắc nhở con cháu biết sống thủy chung, trọng lễ nghĩa

Chùa Bi, còn có tên khác là chùa Đại Bi- ngôi chùa chung của 3 làng: Vân Chàng, Giáp Ba và Giáp Tư- một trong 4 ngôi chùa được xây dựng ở huyện Tây Chân (sau đổi thành Nam Chân) thuộc trấn Sơn Nam từ thời nhà Lý (Nay là thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, Nam Định). Chùa Bi có diện tích hơn 2.600m2 với 600 gian nhà làm bằng gỗ lim chắc chắn. Chùa được kiến trúc hình chữ Công, cao dần tính từ ngoài vào, trông hoành tráng, đồ sộ, bề thế. Hai bên tả hữu đều có hành lang rộng, chạy dài tôn thêm vẻ đẹp của tháp chuông 2 tầng, 8 mái uốn cong mềm mại như đóa hoa sen đang bung nở. Chùa Bi thờ thánh tổ Từ Đạo Hạnh, con trai ông Tư Vinh giữ chức đô sát đời vua Lý Nhân Tông. Từ Đạo Hạnh cùng với Không Lộ thiền sư (chùa Không Lộ) và Giác Hải thiền sư (chùa Phúc Lâm), ba người bạn thân cùng nhau nghiên cứu pháp môn Đà la ni. Họ cùng nhau sang Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh, được đức Phật tổ truyền cho tâm án, lục trí thần thông. Cuối tháng Giêng hàng năm là hội chùa Bi. Trong mấy ngày tưng bừng diễn ra cảnh rước kiệu tế xuân, các trò chơi dân gian như đấu vật, múa rồng, cờ tướng, chạy đàn cầu an… Đặc biệt, các buổi tối dành cho các trò múa rối mà người địa phương quen gọi là trò hát rối.

Cứ đúng 8 giờ tối, trống rộn ràng báo hiệu đêm hát rối bắt đầu! Trong âm thanh của tiếng trống, chuông, thanh la, mõ vang rộn, 20 cụ ông chỉnh tề áo dài thâm, quần trắng, khăn xếp hoặc khăn lượt tiến vào hậu cung thắp hương, làm lễ mở hòm rước 12 đầu rối, gọi là thánh tượng, ra trước chính điện. Trong làn khói hương thơm ngát, các cụ đứng xếp hàng trước tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh, điều khiển các thánh tượng cúi đầu lạy, xin phép thánh rồi mới bước ra sân khấu. Sân khấu biểu diễn rối dân gian chỉ đơn giản là bức rèm che mang tính cách điệu hình sóng nước mắc vào 2 cây cột giữa tiền đường. Người múa rối, người hát, người gõ nhạc cụ đứng sau tấm màn, quay mặt về phía bàn thờ Phật và bàn thờ đức thánh Từ.  Ba nhóm rối, mỗi nhóm 10 người của từng làng ra hát đồng ca chúc mừng chung cho cả 3 làng, 3 xã được an lành phú quý. Nội dung bài hát mang ý nghĩa chúc phúc, ca ngợi quê hương đất nước tươi đẹp, ngợi ca chiến công dựng nước và giữ nước của ông cha trong lịch sử dân tộc, nhắc nhở, răn dạy con cháu biết sống thủy chung, trọng lễ nghĩa. Các bài hát đều có vần điệu, theo thể lục bát, song thất lục bát, nhịp 1/3 hoặc 2/7. Lời đệm, lời đón trong ca từ đều dùng tiếng Nôm cổ, ví dụ như “hòa” (chàng); “nường” (nàng); “bường” (bình).

Rối làng Bi là thể loại rối tay. Tượng làm bằng gỗ vàng tâm được khoét rỗng bên trong, bên ngoài phủ sơn ta. Nét mặt được các nghệ nhân dân gian khắc họa kỹ lưỡng, thể hiện những tính cách khác nhau, được người dân gọi là thánh tượng. Bộ thánh tượng chùa Bi gồm 6 đầu rối to (2 ông chúa mặt đỏ, 2 ông từng mặt trắng, 2 ông cóc mặt vàng), có giá trị lịch sử, tâm linh, giàu tính nghệ thuật vào bậc nhất miền Bắc Việt Nam. Cụ Đàm Quang (84 tuổi), tham gia phường rối từ năm 13 tuổi, nhiều chục năm giữ chân Chánh trùm phường rối cho biết: “Trò hát rối được kiện toàn nội dung, hình thức từ thời Lê Sơ (cách đây gần 500 năm). Chính tên của trò này ban đầu là hội tu kỳ lệ (giáo dục con người bỏ điều ác, làm điều thiện), sau này mới có thêm tên là rối đầu gỗ, ối lỗi, hát rối”.

Tại chùa Đại Bi đang lưu giữ 2 bộ tượng rối, một bộ được làm từ  năm 1957 dùng để tập luyện. Bộ còn lại có niên đại cao, mang nhiều giá trị lịch sử, nhưng chưa có phương án bảo quản hữu hiệu để chống mối mọt. Nơi lưu giữ tượng nằm sau chính điện thờ, ẩm thấp và thiếu ánh sáng. Nhiều đầu rối đã bong sơn, gẫy tay cầm, muốn phục chế phải có kinh phí và nghệ nhân thạo nghề. Được biết, Sở VH-TT&DL tỉnh Nam Định đang làm hồ sơ trình Cục Di sản văn hóa công nhận rối đầu gỗ hầu thánh là di sản văn hóa cấp quốc gia. Mong rằng điều này sớm trở thành hiện thực để có biện pháp tích cực bảo tồn, phát triển loại hình nghệ thuật dân tộc độc đáo cho con cháu mai sau.