Về "Diệc cổ tự" - nơi lưu giữ tác phẩm độc đáo của thi hào Nguyễn Du

ANTD.VN - Chùa Diệc tên cũ là “Diệc cổ tự” tọa lạc trên một mảnh đất thiêng của phường Quang Trung (TP Vinh, Nghệ An). Tên chùa được mượn ý trong kinh Phật “diệc bộ diệc xu”, nghĩa là cùng bước theo, cùng chạy theo, gắn với câu chuyện dân gian về đàn chim diệc do trời phái xuống làm mưa, tưới nước.

Chùa Diệc thời Pháp thuộc (ảnh tư liệu)

Có một điều đặc biệt là Văn tế chiêu hồn, gọi vắn đi là “Văn chiêu hồn”, mà gọi đủ nghĩa là “Văn tế thập loại chúng sinh” do đại thi hào Nguyễn Du sáng tác từng được lưu giữ và tìm thấy lần đầu tiên tại chính Diệc cổ tự.

Nơi đàn diệc bay về

Ở Nghệ An, chùa Diệc luôn là từ được nhắc tới nhiều nhất trong lòng Phật tử. Đó không chỉ là một ngôi cổ tự nhiều giá trị nghệ thuật, văn hóa mà còn là “cái nôi” tâm linh với nhiều huyền tích lạ lùng. Quanh ngôi chùa Diệc, có nhiều câu chuyện khác nhau giải thích sự hình thành của chùa, nhưng chuyện gắn với loài diệc được nhiều người đồng tình hơn cả.

Chuyện kể từ thời rất xưa rằng, có cánh đồng nhiều ao chuôm do bà con đào để lấy nước tưới bỗng một năm hạn hán lớn khiến cá tôm phơi xác, chim chóc trốn biệt đi nơi khác. Đồng bãi quạnh vắng, chỉ có gió Nam thổi mù mịt đất cát, nhưng rất lạ sau một đêm ngủ dậy, người ta thấy diệc bay kín trời. Chúng chen chúc nhau ở các lòng ao lòng chuôm đã nứt nẻ thì trời đang nắng chang chang bỗng tối sầm lại, mây đen vần vũ, giông tố nổi lên, rồi mưa ào ào rơi xuống.

Khi đồng ruộng được tưới mát, ao chuôm đầy ắp nước, người dân trong vùng kéo nhau nhau ra đồng thì ngạc nhiên thấy hàng trăm con diệc nằm chết la liệt. Ai cũng bảo, những con diệc này do trời phái xuống để làm mưa. Vậy là họ thu nhặt xác diệc lại và đắp thành một cái gò nhỏ. Từ hôm ấy, đêm nào người ta cũng thấy đàn diệc hiện ra từ gò rồi bay lên trời. Các cụ già trong vùng bèn xây trên gò đất một ngôi chùa đặt tên là chùa Diệc.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa rõ thời điểm sáng tác “Văn tế chiêu hồn”. Năm 1939, học giả Trần Thanh Mại có đăng trên Đông Dương tuần báo khẳng định Nguyễn Du viết bài văn tế sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp nơi âm khí nặng nề.

Đến đời vua Thành Thái (1873), đất Vinh được nhà vua ký đạo dụ thành lập thị xã. Trước đó, khi chùa Diệc được dựng vào năm 1742, nó vẫn còn rất đơn sơ với tường gianh vách đất, nhưng lại được bao quanh bởi một khu vườn rậm rạp. Năm này qua năm khác, chim muông kéo nhau về rất đông và khách thập phương về lễ bái tấp nập.

Ngày rằm tháng Bảy năm ấy, vị sư trụ trì chùa Diệc nằm mơ thấy chim diệc bay về kín vườn, rồi lại rủ nhau bay về trời. Bà con dân làng bàn nhau góp công đức, xây dựng chùa lớn với Thượng điện, Hạ điện, tam quan, gác chuông đường bệ. Cửa chùa luôn đề đôi câu đối: “Thiền môn quang phổ độ/Vĩnh thủy viễn trường lưu” với “Nhân tâm cầu hòa lạc/Phật pháp thượng tín trung”.

Chùa Diệc tọa lạc tại phường Quang Trung - TP Vinh - Nghệ An

Người tìm ra “Văn tế chiêu hồn”

Tác phẩm “Văn tế chiêu hồn” của Nguyễn Du có 184 câu chia làm 4 phần và được đánh giá là một bài văn khấn tế đề cập đến thế giới tâm linh của người Việt xưa theo cách từ bi hỉ xả nhất của luật nhân quả. Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu - nghèo, sang - hèn. Chúng sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn.

Những câu thơ bất hủ mà Nguyễn Du đã viết: “Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt/Toát hơi may lạnh buốt xương khô/Não người thay buổi chiều thu/Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…” là những lời ở đầu tác phẩm duy nhất nói đến những người chết, nói đến cái chết dưới trăm tình thế và thực chất lại là sự bao trùm rộng rãi những người sống. Theo tìm hiểu của chúng tôi, trong Từ điển Văn học (bộ mới) của Nhà xuất bản Thế giới in năm 2004, tại trang 172 có ghi “người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là GS Lê Thước”.

Nhà chùa cũng cho biết, từ xưa giữa nhà chùa và các thầy giáo, học sinh trường Quốc học Vinh có mối liên hệ mật thiết với nhau. Từ mối liên hệ này, đã dẫn đến một sự kiện văn học quan trọng, đó là năm 1926, thầy giáo Lê Thước (GS Lê Thước, Trường Quốc học Vinh - PV) đã phát hiện được văn bản gốc “Văn chiêu hồn” (tức “Văn tế thập loại chúng sinh”) của Nguyễn Du tại ngay chùa Diệc cổ.

Thầy giáo Lê Thước sinh năm 1891, quê ở huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh) từng dự kỳ thi Hương cuối cùng ở trường Nghệ vào năm 1918 và đậu Giải nguyên. Sau đó thầy Thước chuyển sang con đường Tây học để thuận đường nghiên cứu. Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, thầy Thước về Nghệ An thành lập “Hội Hàn lâm Nghệ An” và dạy trường Quốc học Vinh. Nhà trường ở gần chùa Diệc nên vào ngày nghỉ, thầy giáo thường sang chùa trò chuyện với nhà sư già. Thấy nhà sư là người am hiểu nên Lê Thước càng thích gần gũi. 

Một hôm, nhà chùa cho thầy giáo Thước xem bản chép tay bằng chữ Nôm tác phẩm “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du. Xem xong, thầy Thước cảm động đến run người vì đã vô tình tìm thấy “Văn chiêu hồn” từng lưu lạc hàng trăm năm mà chưa hề có ai nhắc đến. Đó là một sự tình cờ, cũng là một cái duyên khi “Văn chiêu hồn” được lưu giữ ở chùa Diệc. Ngôi chùa này cách quê hương đại thi hào Nguyễn Du khoảng 15km, đó là sự sắp đặt kỳ lạ để cất giấu tác phẩm nhân ái cho hậu thế.

Tam quan chùa Diệc

Mong diệc về chùa

Kể từ khi công chúng biết được chùa Diệu là nơi lưu giữ “Văn chiêu hồn” thì cho đến tận bây giờ, theo truyền thống, tháng Bảy Âm lịch người ta vẫn làm lễ cầu siêu, cúng tế các cô hồn lưu lạc. Nhiều ngôi làng, nhiều nhà chùa, hay các đền, miếu, phủ, quán… đã dùng bài “Văn chiêu hồn” để cầu siêu cho người quá cố. 

Lời lẽ văn chương đầy nhân ái của Nguyễn Du đã làm rung động tới tâm can mọi người bằng những câu như: “Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn/Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra/Lôi thôi bồng trẻ dắt già/Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh”. Chùa Diệc bây giờ, có lẽ chỉ còn mỗi cổng tam quan là nguyên vẹn dáng cũ tích xưa, và may nữa là mấy tấm bia đá còn sót lại ghi việc công đức thời các cụ tu bổ cổ tự. Còn một điều nữa cũng là nỗi băn khoăn của không ít người, đó là mai kia chùa xây mới thì không biết sẽ ra sao, mà không xây thì cũng không được.

Phía tam quan cổ kính, nhà chùa bảo rằng đó là gò đất xưa gắn với xác diệc. Chẳng biết bao giờ diệc mới lại bay về chùa? Và đồ rằng, việc diệc có bay về nữa hay không cũng chẳng phải quan trọng. Quan trọng là nhà chùa làm cách nào giữ lại được nguyên vẹn tam quan cổ kính. Giữ được tam quan là giữ được hồn diệc.