Đề xuất mới nhất của Bộ Công an về bảo vệ bí mật Nhà nước trong CAND

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Dự thảo Thông tư về công tác bảo vệ bí mật Nhà nước trong CAND đang được Bộ Công an đưa ra lấy ý kiến với nhiều nội dung mới, quan trọng, trong đó nêu rõ người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật, Mật, các trường hợp giải mật…

Về việc xác định bí mật Nhà nước và độ mật của bí mật Nhà nước, Điều 3 Dự thảo nêu rõ, người đứng đầu hoặc cấp phó được ủy quyền của đơn vị CAND ban hành, phát hành tài liệu hoặc tạo ra vật chứa bí mật Nhà nước có trách nhiệm xác định bí mật Nhà nước và độ mật của bí mật Nhà nước.

Việc ủy quyền xác định bí mật Nhà nước và độ mật của bí mật Nhà nước được thực hiện thường xuyên hoặc theo từng trường hợp cụ thể và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn ủy quyền. Cấp phó được ủy quyền phải chịu trách nhiệm trước cấp trưởng, trước pháp luật và không được ủy quyền tiếp cho người khác.

Cũng theo Dự thảo, người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước độ Tuyệt mật gồm: Bộ trưởng Bộ Công an; Cục trưởng, Viện trưởng, Tư lệnh của đơn vị trực thuộc Bộ; Chánh Văn phòng, Chánh Thanh tra Bộ Công an, Thủ trưởng Cơ quan UBKT Đảng ủy Công an Trung ương, Chánh Văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an; Giám đốc các Học viện, Hiệu trưởng các trường CAND trực thuộc Bộ; Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…

Người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước độ Tối mật, Mật gồm: Những người quy định tại khoản 1 Điều này; Người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Công an; Trưởng phòng và tương đương; Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố…

Về việc mang tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ, Điều 7 Dự thảo quy định, việc mang tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác ở trong nước phải được người đứng đầu hoặc cấp phó được ủy quyền của người đứng đầu đơn vị CAND trực tiếp quản lý bí mật Nhà nước cho phép.

Cán bộ, chiến sĩ khi mang tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ phải có văn bản xin phép người có thẩm quyền.

Tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước mang ra khỏi nơi lưu giữ phải chứa, đựng, vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị bảo đảm an toàn do người đứng đầu đơn vị CAND quản lý bí mật Nhà nước quy định và phải bảo vệ trong thời gian mang ra khỏi nơi lưu giữ. Khi kết thúc nhiệm vụ phải báo cáo người có thẩm quyền cho phép mang tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ về việc quản lý, sử dụng bí mật Nhà nước và nộp lại đơn vị.

Đặc biệt, Dự thảo còn nêu rõ các trường hợp giải mật. Theo đó, bí mật Nhà nước đương nhiên giải mật khi: Hết thời hạn bảo vệ, hết thời gian gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật Nhà nước quy định tại Điều 19, Điều 20 Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước;

Bí mật này không còn thuộc danh mục bí mật Nhà nước. Khi đó, đơn vị CAND xác định bí mật Nhà nước phải đóng dấu hoặc có văn bản, hình thức khác xác định việc giải mật và thông báo ngay bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Ngoài ra, bí mật Nhà nước được giải mật toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp cần giải mật để đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập, hợp tác quốc tế.