Hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, gây mất ổn định trong khu vực phải bị lên án

ANTD.VN - Bất chấp những lời diễn giải của Trung Quốc, việc nước này triển khai nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông tháng 7-2019 bị dư luận đánh giá là hành vi vi phạm luật pháp quốc tế và gây mất ổn định trong khu vực.

Hãy xem Trung Quốc dựa vào cơ sở pháp lý nào để khẳng định khu vực các bãi cạn, trong đó có Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân, mà nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 hoạt động là thuộc chủ quyền của Trung Quốc. 

Hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, gây mất ổn định trong khu vực phải bị lên án ảnh 1Nhà giàn tại cụm dịch vụ DK 1 thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông

Hành động đơn phương và phi lý

Từ góc độ địa lý, khu vực này nằm cách đường cơ sở thẳng (dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa) mà Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý. Theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS) mà Trung Quốc và Việt Nam đều tham gia ký kết, khu vực này hoàn toàn nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Trong khi đó, khu vực này nằm cách xa lục địa Trung Quốc tới trên 600 hải lý. Vì vậy, theo quy định của UNCLOS, khu vực này chỉ liên quan đến hai quốc gia có bờ biển đối diện với Việt Nam là Malaysia và Brunei. Việc Việt Nam đã và đang thăm dò, khai thác dầu khí, xây dựng các cụm dịch vụ mang tên DK tại khu vực này cũng hoàn toàn phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo UNCLOS. 

Việc Trung Quốc lập luận khu vực Nam Biển Đông thuộc “Đường 9 đoạn” - “Đường chữ U”, nên nước này có thể đưa ra yêu sách chủ quyền dựa trên “quyền lịch sử” trên vùng biển này thì Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã phán quyết rất rõ ràng từ tháng 6-2016. Theo Tòa Trọng tài, dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “Đường 9 đoạn”.

Căn cứ thứ hai để Trung Quốc đưa ra yêu sách đối với vùng biển này là coi đây là vùng biển phụ cận của “Quần đảo Nam Sa”, tên Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ đang chiếm đóng trái phép trên một số đảo đá. Tuy nhiên, theo phán quyết của Tòa Trọng tài, tất các cấu trúc nổi tại Trường Sa đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Như vậy, có thể khẳng định dứt khoát rằng, Trung Quốc không hề có vùng biển hợp pháp nào có thể chồng lấn hay tranh chấp với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam của Việt Nam, nơi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 đã xâm phạm trái phép hồi đầu tháng 7 vừa qua.

Trung Quốc áp đặt “đường lưỡi bò” bất hợp pháp trên Biển Đông

Theo dõi những diễn biến trên Biển Đông trong nhiều thập kỷ qua, có thể thấy việc Trung Quốc đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 vào hoạt động trái phép trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam là bước đi mới nhất nhằm áp đặt trên thực tế “Đường lưỡi bò” bất hợp pháp trên Biển Đông. Diễn biến này nằm trong chiến lược từng bước độc chiếm Biển Đông mà Trung Quốc dự tính từ lâu, nhằm mục tiêu kiểm soát hoàn toàn tài nguyên trong “Đường lưỡi bò”. 

Điều đó giải thích tại sao từ một chiếc bản đồ được vẽ tùy tiện cách đây hơn nửa thế kỷ, mô tả “Đường chữ U” lúc đầu từ 11 đoạn nay còn 9 đoạn, Trung Quốc tự cho phép mình gom lãnh hải của nhiều nước thành của mình. Trong khi tất cả các đường ranh giới trên đất liền và hải phận trên thế giới đều là những đường liền mạch, rõ ràng, thì “Đường chữ U” hay còn gọi là “Đường lưỡi bò” chỉ là một vệt các đoạn đứt quãng rất mơ hồ.

Vô lý là vậy nhưng “Đường chữ U” lại là công cụ quan trọng phục vụ cho mục đích phi lý của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, vùng biển vốn có vị trí địa chiến lược và kinh tế quan trọng. Bằng sức mạnh quân sự, năm 1956, Trung Quốc chiếm đóng trái phép phần phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và năm 1974 thì chiếm toàn bộ quần đảo này. Đến năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Để thực hiện âm mưu và mục đích lâu dài, sau khi chiếm đóng các bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc nhanh chóng biến nơi đây thành những căn cứ quân sự. Từ năm 2014 đến nay, Trung Quốc đã ồ ạt bồi đắp 7 bãi đá họ chiếm đóng của Việt Nam thành các đảo nhân tạo với diện tích trên 13 km2 (chiếm khoảng 95% tổng diện tích các đảo đảo tự nhiên và đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa), trong đó 3 đảo có đường băng dài 3.000m. Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), có trụ sở tại Washington, đã phân tích các hình ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy có nhiều đường băng, chỗ đỗ máy bay, các điểm radar và bệ phóng tên lửa đất đối không nổi trên 3 thực thể - đá Subi, đá Vành khăn và đá Chữ Thập.

Từ năm 2017, Trung Quốc thậm chí còn ngang nhiên đưa ra một học thuyết mới, cái gọi là “Tứ Sa” về Biển Đông. Trong học thuyết này, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Pratas, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và bãi ngầm Macclesfield với tên gọi lần lượt là Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Thay vì được xem là một nhóm các thực thể tranh chấp, Trung Quốc coi mỗi nhóm đảo và đá ngầm này là một quần đảo gồm nhiều thực thể khác nhau, với ranh giới biển cụ thể, có chủ quyền và quyền được xác lập xung quanh đó một vùng đặc quyền kinh tế.

Đi liền với hoạt động quân sự hóa các đảo nhân tạo trên Biển Đông, Trung Quốc còn ngăn cản Việt Nam với các đối tác nước ngoài thăm dò và khai thác dầu khí tại vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ ngang nhiên coi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia khác như của mình, mà điển hình là vụ Trung Quốc hạ đặt dàn khoan 981 trong vùng EEZ của Việt Nam hồi năm 2014. 

Sự chính nghĩa được khẳng định bằng chứng cứ pháp lý và lịch sử

Các ví dụ kể trên là kế sách “biến không thành có”, “tằm ăn dâu”, “cây gậy và củ cà rốt”… mà Trung Quốc đang áp dụng với các nước có tranh chấp trong vấn đề Biển Đông. Mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, tức là chiếm toàn bộ các đảo trong vùng biển này. Trung Quốc cũng muốn nắm chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông và toàn bộ tài nguyên trong khu vực biển này theo “Đường chữ U”. Bên cạnh đó là quyền kiểm soát với vùng trời, vùng biển và đáy biển. 

Điều này mang đến thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông. Để đối phó với thử thách trên, chúng ta cần đẩy mạnh thông tin truyền thông, trước hết là nêu cao chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển. Chính nghĩa đó phải được khẳng định bằng những chứng cứ pháp lý và lịch sử xác thực và thuyết phục trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS).

Thông qua con đường ngoại giao và truyền thông làm cho bạn bè quốc tế thấy được âm mưu, thủ đoạn và hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Xây dựng mối quan hệ chiến lược tin cậy với các quốc gia, nhất là với các cường quốc và các quốc gia cùng có lợi ích trong việc bảo vệ hòa bình, ổn định và luật pháp quốc tế ở Biển Đông, để cùng đồng lòng, tạo nên sự thống nhất và sức mạnh chống lại mọi hành động vi phạm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

Và quan trọng nhất là củng cố ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng biển đảo bằng bất cứ giá nào. Nền tảng cho việc đảm bảo cho hòa bình và chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông là tập hợp và phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, nhất là các cường quốc cùng tất cả các nước có lợi ích chung, để ngăn chặn âm mưu, hành động độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.

Từ góc độ địa lý, khu vực này nằm cách đường cơ sở thẳng (dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa) mà Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý. Theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS) mà Trung Quốc và Việt Nam đều tham gia ký kết, khu vực này hoàn toàn nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Trong khi đó, khu vực này nằm cách xa lục địa Trung Quốc tới trên 600 hải lý. Việc Việt Nam đã và đang thăm dò, khai thác dầu khí, xây dựng các cụm dịch vụ mang tên DK tại khu vực này cũng hoàn toàn phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo UNCLOS.