Hồi ức “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”:

“Chia lửa” với Thủ đô

ANTĐ - Những ngày diễn ra sự kiện lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” ở Thủ đô Hà Nội tháng 12-1972, Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 45 Pháo binh chúng tôi đang tham gia chiến đấu ở thị xã - Thành cổ Quảng Trị.

Trận địa Đại đội 1, Trung đoàn 45 đánh Thành Cổ Quảng Trị năm 1972

Ảnh tư liệu (Phòng truyền thống Lữ đoàn 45)

Được tin đế quốc Mỹ dùng máy bay B52 thực hiện cuộc tập kích đường không chiến lược đánh phá hủy diệt Hà Nội, chúng tôi thực sự lo lắng, ngày đêm hướng về Thủ đô, mong tin chiến sự, sục sôi căm thù khi nghe tin chúng đánh phá ác liệt từ ngoại thành đến trung tâm Hà Nội, pháo đài bay B52 ném bom rải thảm tàn phá thảm khốc phố Khâm Thiên và bệnh viện Bạch Mai… Quan sát bầu trời và mặt đất Quảng Trị trong những ngày này, Pháo đài B52 hầu như vắng bóng và cũng phán đoán được rằng, chúng phải tập trung B52 đánh Hà Nội, dùng con át chủ bài cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, trận quyết định thắng bại của cuộc chiến tranh.

Vì vậy, một “phản ứng” tự nhiên của người lính chiến, chúng tôi đều có chung suy nghĩ: Phải đánh “chia lửa” cùng Hà Nội, “chia lửa” cùng quân và dân miền Bắc, phải trả thù. Chúng tôi nhận được mệnh lệnh khẩn cấp: “Để phối hợp với mặt trận Hà Nội, Ban tham mưu Trung đoàn đã có kế hoạch tác chiến… Riêng Đại đội 1 tổ chức lực lượng, chuẩn bị kế hoạch, khôi phục kì được khẩu pháo K1 trong ngày ngừng bắn nhân dịp Lễ Noel, để tăng đầu pháo chiến đấu”.

Số là khẩu trọng pháo tầm xa 130mm nòng dài của Đại đội 1 chúng tôi đã bám trụ chiến đấu từ đầu chiến dịch đến giờ, tại trận địa Ba Gơ, nơi mà địch xác định là mục tiêu số 1 chúng phải hủy diệt. Trong một trận đánh kéo dài chi viện cho Bộ binh bảo vệ Thành cổ, số lượng đạn bắn quá nhiều, lại bị trúng đạn phản pháo của địch, làm cho bộ phận hãm lùi bị hỏng.

Hình ảnh trận địa pháo lúc này so với ngày đầu chiến dịch đã biến dạng hoàn toàn, một bãi hố bom chồng hố bom quanh trận địa pháo rộng hàng trăm mét, đất chết sạm đen, cành lá ngụy trang khô cháy, rừng Ba Gơ bị phát quang, trận địa thành lộ thiên, địch không ngừng bắn phá ác liệt, cho nên không thể trục nòng pháo lên sửa chữa ngay được.

Thật ra trước đây, Đại đội đã nhiều lần tổ chức trục kéo nòng pháo K1 nhưng không kết quả, bởi sức nặng của khối trọng pháo quá lớn đã cắm sâu vào đất tới nửa mét. Chúng tôi phải lên kế hoạch cứu pháo cụ thể, chi tiết, được Trung đoàn phê duyệt và trực tiếp chỉ đạo, hỗ trợ nhân, vật lực thực hiện.

Kế hoạch tổ chức gồm 3 bộ phận: tổ làm đường, san lấp những hố bom trước và sau pháo để xe xích hoặc tời có đường vào tiếp cận pháo, tổ xe và tổ kỹ thuật. Tất cả hiệp đồng thực hiện dưới sự chỉ huy của tham mưu trưởng Trung đoàn, trực tiếp là Ban chỉ huy Đại đội và đồng chí Tiểu đoàn phó tăng cường cho Đại đội.

Biết là đến sau 24 giờ đêm 24, 0h ngày 25 lệnh ngừng chiến trong ngày Lễ Noel mới có hiệu lực, các bộ phận đã bí mật khẩn trương tổ chức thực hiện xong từ nhiều đêm trước.

Đúng giờ G, Tham mưu trưởng Trung đoàn phát lệnh, xe xích do chiến sĩ lái xe Triệu Quang Tích lái, được lệnh nổ máy, móc cáp từ nòng pháo vào xe kéo mạnh theo hiệu lệnh của Đại đội phó Phạm Đức Lương. Dây cáp từ từ căng, rồi rung lên bần bật, xe xích bỗng chững lại và cứ rùng rùng tại chỗ. Lái xe Tích nhảy xuống quan sát từ xe đến pháo rồi quay lại vọt lên xe tăng ga. Chiếc xe có dấu hiệu chuyển động, nhưng cứ giật cục, giật cục, rồi đột ngột tắt máy. Tiếp tục khởi động - tắt máy; khởi động - tắt máy; khởi động…, lái xe Tích kiên trì không biết bao lần, máy gầm rú, đất rung chuyển cả trận địa, nhưng chiếc xe vẫn đứng nguyên tại chỗ.

Tạm dừng cho máy nổ bớt nóng, anh em pháo thủ dùng xẻng, cuốc đào bới, moi gạt đất quanh nòng và dưới chân càng pháo, để hỗ trợ cho xe kéo, nhưng khi kéo tiếp, nòng pháo vẫn không hề di chuyển, chỉ có đoạn cắm vào đất do xe kéo rung lắc nhiều lần, lỗ đất có giãn rộng ra.

Tham mưu trưởng Trung đoàn ra lệnh tạm dừng và mời Ban chỉ huy Đại đội, cùng cán bộ cơ quan, trợ lý quân khí và thợ súng pháo Trung đoàn hội ý đi đến thống nhất: “Nguyên nhân chủ yếu thì đã rõ, đã thấy trước, chính là do bộ phận hãm lùi của pháo bị hỏng, nòng pháo bị tụt cắm sâu vào đất, nhưng nôn nóng và cách làm tắt như vừa rồi là không được, ít nhất là phải làm theo 2 bước. Một là tập trung kích, vừa nâng pháo, vừa kéo để đưa được nòng pháo lên khỏi mặt đất; sau đó là ghìm pháo, ghìm càng để kéo nòng pháo về phía trước, về vị trí vốn có của nó”.

Đêm đã về khuya, nét mặt ai cũng căng thẳng, lo âu, đêm cuối năm giá lạnh mà quần áo ướt đẫm mồ hôi, nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng đặt quyết tâm phấn đấu hoành thành nhiệm vụ trước khi trời sáng.

Tập trung bàn kích có sức nâng lớn, kết hợp với kéo, từng bước nâng, kích rồi kéo, kéo rồi kích,… Cuối cùng chúng tôi đã kéo được nòng pháo lên khỏi mặt đất.

Xa xa phía địch, tiếng súng phản bội lệnh ngừng bắn của chúng đã nổ, Khẩu đội 1, tranh thủ đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa mới. Cùng với 2 khẩu K2 và K3 của Đại đội chiến đấu từ ngày 26-12 đến 31-12 đã chi viện cho Bộ binh đánh tiêu diệt hơn 200 địch, riêng pháo đánh tiêu diệt 64 tên, 9 pháo địch trong đó có một trận địa bốn khẩu 105mm và một khẩu 175mm.

Hoàn thành nhiệm vụ “cứu pháo” trong một đêm trắng và lập được thành tích những ngày cuối năm 1972, chúng tôi tự hào đã góp phần nhỏ của mình thực hiện tâm nguyện được “chia lửa” cùng Thủ đô Hà Nội, đặc biệt không có niềm vui to lớn nào đối với chúng tôi bằng niềm vui khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo: “Cùng với chiến thắng Quảng Trị, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, buộc đế quốc Mỹ phải ký hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, đơn phương rút quân về nước…”.