Cấp căn cước ngay khi công dân chào đời

ANTĐ - Ngày 4-6, Quốc hội đã nghe Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an, thừa ủy quyền của Thủ tướng  Chính phủ, trình bày Tờ trình dự án Luật Căn cước công dân.

Khẳng định tính cần thiết ban hành Luật Căn cước công dân, Bộ trưởng Trần Đại Quang cho biết, dù Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về căn cước công dân phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn, nhưng đến nay, các quy định này còn tản mạn, chủ yếu được ban hành dưới hình thức nghị định của Chính phủ nên hiệu lực thi hành thấp. Trong khi đó, quyền và nghĩa vụ của công dân về căn cước công dân là quyền và nghĩa vụ cơ bản nên cần phải được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao là Luật. 

Mặt khác, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là bối cảnh thực hiện hội nhập, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế và cải cách hành chính đã đặt ra các yêu cầu mới. Theo đó, cần quy định việc sử dụng thẻ Căn cước công dân theo công nghệ tiên tiến, vừa bảo đảm bền, đẹp, chống làm giả, vừa có khả năng tích hợp nhiều thông tin cần thiết để góp phần đơn giản hóa giấy tờ cho công dân, từng bước thực hiện Chính phủ điện tử. Cùng với đó, sẽ bảo đảm sự đồng bộ với pháp luật về hộ tịch, cư trú, dữ liệu quốc gia về dân cư với trình tự, thủ tục cấp, đổi, cấp lại giấy tờ về căn cước công dân đơn giản, thuận tiện, không phiền hà. 

Theo Bộ trưởng Trần Đại Quang, dự án Luật Căn cước công dân bao gồm 5 chương, 36 điều. Theo đó, Thẻ Căn cước công dân (thay thế cho tên gọi hiện nay là Chứng minh nhân dân) là giấy tờ tùy thân có giá trị chứng nhận căn cước của công dân Việt Nam. Trên thẻ có thông tin về nơi thường trú của công dân, họ và tên khai sinh, họ và tên gọi khác, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc... Mặt khác, trên thẻ có số định danh cá nhân của mỗi người, giúp cho công dân thuận tiện khi giải quyết các thủ tục hành chính, thực hiện các giao dịch dân sự. Trên thẻ còn có bộ phận điện tử để lưu trữ, khai thác thông tin về công dân. Quy định này làm cơ sở tích hợp các thông tin cần thiết trên thẻ để phát triển thành thẻ công dân điện tử. 

Về hạn sử dụng của thẻ, dự luật quy định, với người dưới 15 tuổi, hạn sử dụng là từ khi cấp đến khi đủ 14 tuổi. Với người từ 15 tuổi đến dưới 25 tuổi, hạn sử dụng là 10 năm, kể từ ngày cấp. Với người từ đủ 25 tuổi đến dưới 70 tuổi, hạn sử dụng là 15 năm, kể từ ngày cấp. Riêng người từ   70 tuổi trở lên không xác định hạn sử dụng của thẻ. Bộ trưởng Trần Đại Quang nói: “Một bước tiến quan trọng so với quy định của pháp luật hiện hành là dự luật quy định cấp thẻ Căn cước công dân cho công dân dưới 15 tuổi, ngay từ khi làm thủ tục khai sinh để bảo đảm quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013”.

Thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Nguyễn Kim Khoa cho biết, nội dung dự thảo Luật phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước, phù hợp với quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân.

Đa số ý kiến các thành viên Ủy ban Quốc phòng và An ninh cơ bản nhất trí với những quan điểm chỉ đạo đã nêu trong Tờ trình và nội dung dự thảo Luật. Dù vậy, Ủy ban cũng đề nghị đánh giá tác động toàn diện của dự luật đối với kinh tế - xã hội và lợi ích của nhân dân.

Ủy ban tán thành với việc quy định số định danh cá nhân trong Luật và cho rằng, đây là bước đột phá quan trọng về cải cách thủ tục hành chính liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân. Song, để bảo đảm cơ sở pháp lý và tính khả thi, dự thảo Luật cần bổ sung một số quy định cụ thể hơn về phương thức xác lập số định danh cá nhân, thủ tục và thẩm quyền cấp số định danh cá nhân...

Nhiều ý kiến nhất trí quy định cấp thẻ Căn cước công dân thay cho Chứng minh nhân dân và được cấp ngay từ khi công dân sinh ra, góp phần đơn giản hóa nhiều loại thủ tục hành chính, giấy tờ công dân, khó làm giả, đồng thời phù hợp với xu hướng hiện đại trong quản lý Nhà nước về dân cư.

Dự án Luật Căn cước công dân cũng quy định số thẻ Căn cước công dân là số định danh cá nhân. Số này là mã số công dân gồm 12 số tự nhiên, được xác lập từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư do Bộ Công an quản lý thống nhất trên toàn quốc, được cấp cho mỗi công dân Việt Nam và không lặp lại ở người khác. Trường hợp đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân thì số thẻ vẫn giữ đúng theo số định danh cá nhân đã cấp.