Cần khoảng 400.000 tỷ đồng để đầu tư hệ thống sân bay đến năm 2030

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Giai đoạn 2021 - 2030 sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số sân bay lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội (sân bay Nội Bài) và vùng TP.HCM (sân bay Tân Sơn Nhất và Long Thành).

Bộ GTVT vừa trình Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050.

Ưu tiên đầu tư một số sân bay lớn, đầu mối

Tờ trình của Bộ GTVT nêu, giai đoạn 2021 - 2030 sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số sân bay lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng thủ đô Hà Nội (sân bay Nội Bài) và vùng TP.HCM (sân bay Tân Sơn Nhất và Long Thành); từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 sân bay hiện hữu, đầu tư 6 sân bay mới để nâng tổng số sân bay của cả nước đưa vào khai thác lên 28 sân bay, tổng công suất thiết kế hệ thống sân bay đáp ứng khoảng 278 triệu hành khách, đảm bảo trên 95% dân số có thể tiếp cận tới sân bay trong phạm vi 100km.

Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống sân bay đến năm 2030 khoảng 400.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 22% nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành), được huy động nguồn vốn ngân sách Nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Theo đó, thời kỳ 2021-2030, mạng cảng hàng không (CHK) được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Hà Nội và TP.HCM, hình thành 28 CHK bao gồm 14 sân bay quốc tế cùng với sân bay quốc nội.

Bộ GTVT định hướng ưu tiên phát triển sân bay trung tâm, đầu mối lớn trong giai đoạn tới

Bộ GTVT định hướng ưu tiên phát triển sân bay trung tâm, đầu mối lớn trong giai đoạn tới

Cùng đó, vẫn duy trì vị trí quy hoạch CHK quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/2011 để thay thế cho CHK quốc tế Cát Bi giai đoạn sau năm 2030.

Nghiên cứu quy hoạch giao thông kết nối tới CHK quốc tế Hải Phòng đồng thời nghiên cứu, khảo sát và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc bổ sung quy hoạch, xây dựng CHK, sân bay tại các đảo (như Lý Sơn, Phú Quý...), quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Tầm nhìn đến năm 2050, hình thành 29 CHK, bao gồm 14 CHK quốc tế; 15 CHK quốc nội.

Đặc biệt, trong giai đoạn này sẽ hình thành Cảng hàng không thứ 2 hỗ trợ cho Cảng hàng không quốc tế Nội Bài (về phía Đông Nam Thủ đô Hà Nội) và một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Xã hội hóa, giao địa phương huy động vốn

Tờ trình cũng đề xuất danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư. Cụ thể, sẽ đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các CHK quốc tế lớn đóng vai trò đầu mối như: Xây dựng CHK quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đạt công suất 25 triệu hành khách/năm; Xây dựng nhà ga T3 - CHK quốc tế Tân Sơn Nhất đạt công suất 20 triệu hành khách/năm; Mở rộng nhà ga T2 - CHK quốc tế Nội Bài (nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm), Xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 – CHK quốc tế Nội Bài về phía Nam của Cảng;...

Để thực hiện quy hoạch, Bộ GTVT đề xuất nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật (Luật và các Nghị định liên quan) để có thể huy động nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư theo phương thức nhượng quyền đầu tư, khai thác sân bay. Xây dựng và ban hành quy định về lựa chọn nhà đầu tư đối với công trình dịch vụ chuyên ngành hàng không tại sân bay.

Về giải pháp về huy động vốn đầu tư, đối với sân bay mới, Bộ GTVT nêu rõ sẽ huy động tối đa nguồn vốn của xã hội đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Giao UBND các tỉnh, thành phố có quy hoạch sân bay mới là cơ quan có thẩm quyền để huy động, cân đối nguồn lực và tổ chức thực hiện đầu tư.

Đối với sân bay hiện đang khai thác: nghiên cứu xây dựng cơ chế phân cấp quản lý các sân bay để địa phương có thể huy động nguồn lực đầu tư nâng cấp, mở rộng các sân bay phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính để doanh nghiệp cảng và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bảo đảm hoạt động bay đủ năng lực tự đầu tư, quản lý và khai thác các công trình kết cấu hạ tầng sân bay và công trình kỹ thuật bảo đảm hoạt động bay.

Riêng các CHK quan trọng quốc gia, các sân bay có hoạt động quân sự chiến lược về quốc phòng, an ninh và các sân bay khu vực biên giới, hải đảo sẽ ưu tiên sử dụng nguồn lực của Nhà nước (doanh nghiệp nhà nước và ngân sách nhà nước) để đầu tư.