Bộ Công Thương bác thông tin gà nhập khẩu ồ ạt khiến giá gà trong nước giảm mạnh

ANTD.VN - Vào thời điểm ngày 22-10-2019, giá thịt gà công nghiệp (lông trắng, lông mầu) tại các tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ ở mức 25.000 - 25.500 đồng/kg, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2018.

Lượng gà nhập khẩu năm 2018 và 2019 (nguồn: Tổng cục Hải quan)

Bộ Công Thương vừa có thông tin phản hồi về nhận định "gà nhập khẩu ồ ạt khiến giá gà trong nước giảm mạnh" trong thời gian vừa qua.

Cụ thể, tính đến hết tháng 9-2019, tổng đàn gia cầm của cả nước đã tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2018 (chỉ riêng quý III-2019 đã tăng 19,2% so với quý III-2018).

Đối với tỉnh Đồng Nai - địa phương chăn nuôi trọng điểm của cả nước, khi dịch bệnh tả lợn châu Phi lan rộng, nhiều cơ sở chăn nuôi lợn ở tỉnh Đồng Nai nói riêng và khu vực Đông Nam Bộ nói chung đã chuyển sang chăn nuôi gà. Tính đến hết tháng 9-2019, tổng đàn gà của riêng tỉnh Đồng Nai đạt hơn 24,8 triệu con, đã tăng 16,8% so với thời điểm tháng 4 năm 2019.

Theo Bộ Công Thương, vào thời điểm ngày 22-10-2019, giá thịt gà công nghiệp (lông trắng, lông mầu) tại các tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ ở mức 25.000 - 25.500 đồng/kg, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2018.

Đây là mức giá đã tăng hơn nhiều so với thời điểm giữa tháng 9-2019 (16.000 - 18.000 đồng/kg)- giai đoạn các hộ chăn nuôi đang ồ ạt bán tháo cắt lỗ gây giá sụt giảm mạnh.

Trong khi đó, tại các tỉnh phía Bắc, giá thịt gà nuôi công nghiệp dao động từ 35.000 - 37.000 đồng/kg, giá các loại thịt gà ta vẫn giữ mức giá ổn định, thậm chí nhiều nơi có mức giá tốt.

Như vậy, trước tháng 8-2019, giá gà thịt trong nước tương đối ổn định, giá thịt gà trong nước chỉ giảm cục bộ tại một khu vực với một chủng loại trong một thời điểm. Giá thịt gà ta, gà công nghiệp tại phía Bắc gần như không có sự thay đổi, chỉ giảm giá thịt gà công nghiệp tại khu vực Đông Nam Bộ trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 9-2019.

Nguyên nhân là bởi khi dịch tả lợn châu Phi lan rộng, nhiều hộ chăn nuôi lợn ở khu vực Đông Nam Bộ dự báo người tiêu dùng sẽ không ăn thịt lợn, chuyển sang chăn nuôi gà công nghiệp ồ ạt, làm tăng đàn tự phát, thiếu kiểm soát.

Việc phát triển “nóng” ngành chăn nuôi gà tại khu vực này đã gây sức ép cho các hộ, các cơ sở chăn nuôi bán giảm giá để cắt lỗ, thu hồi vốn.

Về gà nhập khẩu, các tháng đầu năm 2019 so với năm 2018, lượng nhập khẩu thịt gà tăng trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6-2019 nhưng đã giảm dần từ tháng 6 đến nay. Giá nhập khẩu bình quân mặt hàng này là 861 USD/tấn, tương đương khoảng 19.800 đồng/kg (chưa gồm thuế, phí) và có xu hướng tăng khá mạnh từ tháng 6-2019 đến nay.

Giá thịt gà nhập khẩu trong giai đoạn tháng 8 đến đầu tháng 9-2019 luôn cao hơn giá thịt gà công nghiệp sản xuất trong nước tại khu vực Đông Nam Bộ. Giá nhập khẩu bình quân thịt gà tháng 8 là 910 USD/tấn, tương đương 21.500 đồng/kg, tháng 9 là 857 USD/tấn, tương đương 20.000 đồng/kg (chưa bao gồm thuế, phí), trong khi vào thời điểm giữa tháng 9-2019, giá thịt gà công nghiệp tại Đông Nam Bộ là 16.000 - 18.000 đồng/kg. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu thụ trong nước đối với thịt gà vẫn không tăng dù có dịch tả lợn châu Phi.

Do đó, Bộ Công Thương khẳng định: “Việc nhập khẩu thịt gà trong thời gian qua có thể cũng tác động một phần nào nhưng không phải là nguyên nhân chủ yếu tác động tiêu cực đến ngành chăn nuôi trong nước, gây giảm giá thịt gà”.

Bộ Công Thương cũng khuyến cáo các hộ, các cơ sở chăn nuôi cân nhắc việc tăng đàn, tránh tự phát, ồ ạt, tránh dẫn đến nguồn cung quá lớn, làm giảm giá bán.

Theo số liệu công bố của Tổng cục Hải quan, 9 tháng năm 2019, cả nước nhập khẩu 215,7 nghìn tấn thịt gà các loại với kim ngạch đạt hơn 186 triệu USD, tăng 49% về lượng và tăng 46% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.

Việt Nam nhập khẩu thịt gà các loại từ các nước như: Hoa Kỳ chiếm 61,8% tổng lượng nhập khẩu; Brazil chiếm 13,1% và Hàn Quốc chiếm 12,3%.

Thịt gà nhập khẩu tập trung vào hai loại là thịt gà đông lạnh nguyên con và thịt gà đông lạnh đã chặt (mã số HS 020712 và mã số HS 020714), chiếm 98% tổng kim ngạch nhập khẩu thịt gà; Trong đó, đùi gà chiếm tỷ trọng nhập khẩu lớn nhất (71,5%); chân gà (8,7%), gà nguyên con (8,2%), cánh gà (5,8%), các bộ phận khác (5,8%).