Tiếng Hà "lội"

ANTD.VN - Người Việt Nam đương nhiên nói tiếng Việt Nam, thế nhưng không phải ai cũng biết, cũng hiểu cái hay cái đẹp tiếng nước mình. 

Tàu điện trên phố Hàng Đào (Hà Nội) năm 1940 - Ảnh: Harrison Forman

Trong bài “Tiếng An Nam” của Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên Tạp chí Đông Dương số ra ngày 12-2-1914 có đoạn: “Tiếng nói nước ta là tiếng nói hay, đủ tiếng mà diễn ra được hết ý tình, đủ dùng cho mọi dân, có cương thường đạo lý, có cách đàm luận, có cách lịch sự, có cách giao tiếp với nhau cũng tao nhã”. 55 năm sau, nhạc sỹ Phạm Duy đã ngợi ca tiếng Việt qua bài hát “Tình ca”. Phần  giai điệu bài hát vô cùng mượt mà, phần ca từ rất sâu lắng, cho người nghe  thêm yêu thêm mến tiếng nước mình: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời.  À à ơi! Tiếng ru muôn đời”.

Nói tiếng Việt là nói chung, tuy nhiên từng vùng miền tiếng nói lại có âm ngữ khác nhau. Về tiếng Hà Nội, ca dao tục ngữ có câu:

Người thanh tiếng nói cũng thanh

Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu 

Qua câu ca dao, người ta có thể biết tiếng nói của người Hà Nội xưa: thanh thoát, dễ nghe. Pierre Jacques Lemonnier de la Bissachère là Giáo sỹ của Chủng viện Hội truyền giáo đối ngoại Paris sang Đàng Ngoài năm 1790 và ở Đại Việt 18 năm. Ông đã thu thập, ghi chép rất nhiều câu chuyện về đời sống, xã hội giai đoạn này ở Thăng Long và Bắc Kỳ.

Trong cuốn  “Hiện tình của xứ Bắc Kỳ, Nam Kỳ và những vương quốc Cao Miên, Lào và Lạc Thổ” (État actuel du Tonkin de la Cochinchine et de royrume de Cambodge, Laos et LacTho -2 tập, xuất bản năm 1812 tại Paris), về tiếng Bắc Kỳ và Thăng Long so với tiếng Nam Kỳ, ông viết: “Tiếng Bắc Kỳ, đặc biệt là tiếng Thăng Long mềm mại, thanh lịch  và đậm chất thi ca”. Trong ca dao, ít nhiều vẫn còn kiểu “thổi kèn khen lấy” thì nhận định của một người  ngoại quốc mang tính khách quan hơn cho thấy tiếng Hà Nội xưa thế nào.

Trong một bài nghiên cứu về văn hóa Hà Nội, Giáo sư Trần Quốc  Vượng viết: “Hà Nội có ngôn ngữ riêng: Tiếng Hà Nội”. Nhà văn Tô Hoài, người sinh ra lớn lên ở Hà Nội, ông hiểu biết rất sâu văn hóa đất Kẻ Chợ đã có mọt bài viết về tiếng Hà Nội. Theo Tô Hoài, ở Hà Nội trước đây có 3 giọng nói, một giọng thường được gọi là giọng Kẻ Chợ, chỉ người nơi khác học nói lấy điệu.

Cũng không hiểu sao người ta lại chú ý đến giọng của đàn bà. Giọng Kẻ Chợ mượt mà, đài các vừa ngọt xớt lại vừa chua ngoa của mấy bà giầu có, mấy cô vợ thầy thông, thầy phán và những người tập tễnh học làm sang, học đòi giọng Kẻ Chợ. Giọng này bây giờ không còn. Giọng của người thường đông đúc, hầu như tuyệt đối là những người ngụ cư trong nội vùng 36 phố phường. Tiếng nói người nơi đô hội này không pha vùng nào tiếng rành rõ, chững chạc, khoan thai, sáng sủa. Tiếng và giọng ấy cũng là giọng chính của tiếng Hà Nội bây giờ. Giọng Hà Nội chỉ nghe được ở trung tâm quanh Hồ Gươm và 36 phố phường cũ. 

Emond Nordeman là Giáo sư tiếng Pháp dạy ở trường Thông ngôn Hà Nội, ông thành thạo tiếng Việt và là tác giả cuốn Quảng tập viêm văn (Chrestomathie Annamite) bằng tiếng Việt, cuốn sách được  xuất bản tại Hà Nội năm 1898, sau đó chính ông dịch sang tiếng Pháp. Trong phần ghi chép lại những gì thu thập được theo phương ngữ (thổ âm) vùng Bắc bộ trong đó có Hà Nội thì hầu như không có phát âm  l thành n hoặc ngược lại, chỉ có ngữ âm thuộc vần tr thành ch hay ngược lại, vần s thành x và ngược  lại.

Từ cuốn sách của Nordeman thì hoặc người Hà Nội xưa không nói nhịu hoặc Nordeman chưa tìm hiểu hết vì thực tế cho đến nay vẫn còn người sống ở Hà Nội nói nhịu. Theo nhà văn Tô Hoài, các vùng mấp mé ngoại ô nói giọng khác với dân khu vực “36 phố phường”, ông cho rằng từ chợ Mơ trở xuống hay nói nhịu, vùng tây bắc ngoại thành đã nói tiếng Kẻ Bưởi, Kẻ Noi. Tô Hoài kết luận “những người  quê gốc ở phía Nam Hà Nội là bệnh chứ không phải nói nhịu. Ví dụ hay làm nói nhầm là hay nàm, nói năng thì thành lói lăng”.

Tuy nhiên  nhà văn Tô Hoài không chỉ ra vì sao khu 36 phố phường không nói nhịu l và n trong khi vùng ven đô lại nói nhịu. Năm 2011, Hà Nội tiến hành khảo sát thực trạng nói nhịu l và n (trong dự án gọi là nói ngọng) tại 13 huyện ngoại thành Hà Nội, kết quả cho thấy có 22,27% trong số 203.832 học sinh và 11,80% trong số 10.875 giáo viên nói và viết sai chữ l, n. Tại sao tỷ lệ nói nhịu ở các huyện ngoại thành như vậy? Dĩ nhiên trước kia các  huyện này không thuộc thành phố Hà Nội. 

Nhiều ý kiến cho rằng sở dĩ dân khu vực 36 phố phường không nói nhịu do tính sỹ diện, lòng tự trọng của dân thượng kinh rất cao, nói nhịu sẽ bị người nói chuyện với mình thầm chê cười nên ai nói mắc chứng này quyết sửa chữa. Điều đó đã tác động đến người các tỉnh nhập cư vào Thăng Long-Hà Nội mở xưởng sản xuất hàng thủ công  bắt chước. Còn lòng tự trọng của người dân vùng ven cũng rất cao song do mối quan hệ chỉ quẩn quanh trong làng trong xã nên họ cũng không cần sửa vì người ta cũng giống mình.

Lại có ý kiến khác cho rằng từ cuối thế kỷ 19, chính quyền Pháp  đã mở các trường tiểu học Pháp-Việt đầu tiên ở Hà Nội và các trường  tập trung chủ yếu ở khu vực 36 phố phường. Học tiếng Pháp mà nói nhịu sẽ bị các thầy giáo người Pháp bắt nói lại vì thế trẻ đi học không còn nói nhịu. Chính những đứa trẻ này về nhà đã bắt lỗi khi người lớn nói nhịu, lại thêm tính sỹ diện, lòng tự trọng nên dần dần khu vực 36 phố phường không còn người nói nhịu l thành n và n thành l. Quan điểm này cũng có lý vì thực tế các gia đình có nhiều người đi học hay học cao thì hầu như không có ai nói nhịu. 

Trong những năm qua, ngành giáo dục Hà Nội đã triển khai dự án chữa nói nhịu, tuy nhiên để lớp trẻ không còn nói nhịu thì rất cần thiết  phải kéo dài dự án nhiều năm và triển khai liên tục mới mong Hà Nội không thành Hà “lội”.                                                     

Tin đọc nhiều