Rau muống thời bao cấp

ANTD.VN - Thăng Long xưa lắm hồ, nhiều ao nên cũng nhiều rau muống. Thời Lý, thôn Đông (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ) có hai chị em nhà họ Phạm xinh đẹp lại đảm đang và nổi tiếng vì trồng rau muống cọng trắng lá xanh, lợn họ nuôi bao giờ cũng béo. Chuyện đến tai vua, nhà vua cho gọi vào làm cung  phi. Về già, vua cho hai bà về quê, cấp đất và ao để thả rau muống, nuôi lợn. 
     

Rau muống thời bao cấp luôn gợi nhớ đến một lớp người tần tảo một thời

Làng Kim Liên xưa (nay là phường Kim Liên, quận Đống Đa) là đất ven kinh thành có nhiều hồ ao nên cua ốc cũng lắm. Cũng như các làng Giảng Võ, Trung Tự, Hào Nam… Kim Liên có loại rau muống thân trắng, ngọn nhỏ ăn giòn. Để vua biết đến làng và cũng là tỏ lòng tôn kính, dân Kim Liên tiến vua ăn thử, ngài khen ngon và từ đó cứ đến  mùa hè, mưa xuống rau xanh tốt, nhà nào cũng làm rau tiến vua. Thời nhà Nguyễn, hồ Giảng Võ có tên là hồ Rau Muống, làng Kim Liên có cây cầu bắc qua con sông nhỏ là cầu Muống vì khúc sông này dân thả rau muống. 

Rau muống dễ trồng, dễ sống nên là thứ rau ăn hàng ngày của người Việt nhưng người Hà Nội ăn rau muống cầu kỳ hơn. Nhiều gia đình luộc từng mẻ sau đó cắt ngọn riêng, thân riêng. Ngọn chấm với nước mắm vắt chanh còn thân chấm với mắm tép. Khi mùa đông lạnh giá đã qua, rau xà lách, loại rau từ châu Âu sang không chịu nổi thứ ánh sáng bức gắt, người Hà Nội ăn rau muống sống cho đỡ xót ruột.

Họ chẻ cọng rau thành sợi nhỏ, trộn lẫn với hoa chuối tây thái sợi, thêm ít rau diếp vài lá tía tô sau đó ngâm nước muối. Sợi rau gặp nước, e lệ cuộn lại ôm chặt sợi hoa chuối trông như trai gái quấn quít. Bún chả, bún ốc, bánh tôm… thiếu thứ rau sống này thì cái ngon giảm đi nhiều. 

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến     

Cọng rau muống cạn, rau ruộng đều chẻ được nhưng rau muống bè mà chẻ trông óng ả đẹp mắt và ăn không chát. Rau muống bè chỉ có ở Hà Nội, cũng thả trên mặt nước nhưng phải có bí quyết. Mùa đông, rau muống ruộng tàn úa, không thể lên được thì các bà xã viên hợp tác xã mua về xếp thành đống rồi phủ bao tải lên ủ. Nhưng phủ kín quá thân sẽ thối mà phủ hở thì nó lại mọc mầm, bí quyết chính là ở chỗ này.

Chờ thời điểm lạnh nhất đã qua, họ dỡ đống xơ đưa xuống thuyền nan rồi rải mặt hồ, ao, cắm các cây tre hay nứa định vị để rau giống khỏi trôi khi gió to. Chừng một tuần sau, từ xơ rau bật lên các mầm trắng và dần lên xanh. Thường sau đợt thu hoạch chừng chục ngày, rau lại cho hái kỳ hai, nếu gặp mưa rau tốt nhanh hơn. Sau ba lần hái, người ta lại thay xơ mới với chu trình như ban đầu và cứ thế kéo dài cho đến hết vụ. Việc chăm sóc cũng như thu hoạch đều trên chiếc thuyền nan nhỏ tròng trành.

Đặc điểm của rau muống bè Hà Nội là thân mềm, giòn vì thế lúc nhặt, rau phát ra tiếng kêu tanh tách nghe vui tai. Các bà nội trợ thích  rau dính bèo tấm vì non và ăn ngon hơn. Để rửa hết bèo tấm mất rất nhiều thời gian và tốn nước nhưng vốn quen với lối ăn uống “tiểu tư sản” nên họ cũng chẳng ngại. Rau bè luộc xanh hơn, không đỏ hay tái như rau ruộng. Vào mùa sấu, cho thêm dăm quả sấu xanh, nồi nước rau chuyển sang trắng nhờ chan với cơm gạo “mậu dịch” dễ nuốt hơn.

Hết mùa sấu mới thay bằng quả quéo hay lá me. Còn nước mắm chấm mà vắt chanh thì a xít trong chanh sẽ biến màu thẫm thành màu vàng nhạt như mật ong trông mềm và thơm. Thêm vài quả cà pháo hay cà bát muối dầm xì dầu ớt tỏi thì đánh hết cả nồi cơm là chuyện thường. Vào tháng lạnh, rau muống bè xào với tỏi không cần thịt bò cũng đủ hấp dẫn cả nhà, rau không nát xanh bóng dù chỉ có chút mỡ. 

Thời bao cấp Hà Nội, cung cấp rau muống ruộng cho người dân là các xã Thịnh Liệt, Định Công. Rau trồng ở ruộng xâm xấp nước, khi rau cao chừng gần nửa mét, xã viên đi cắt rồi mang cân cho công ty rau hoa quả và công ty này bán cân cho dân. Rau muống bè của các hợp tác xã Phương Liệt, Khương Thượng, Trung Tự, Kim Liên, Hào Nam, Giảng Võ... chủ yếu cân cho các cửa hàng dành cho cán bộ cao cấp ở phố Tôn Đản hay phố Nhà Thờ. Còn rau bè của các gia đình ở Mai Động, Tương Mai, làng Tám… thì bán ở các chợ xanh. 

Thuở còn tàu điện, khi chuyến tàu đầu tiên leng keng chạy dưới bóng đèn đường đỏ quạch từ Mơ lên Bờ Hồ thì ở toa cuối, chỉ có các gánh rau muống của các bà ở Thịnh Liệt, Tương Mai, Mai Động… quần chân què xắn cao hơn đầu gối, các bà mặc cả tiền cước với sơ vơ. Tàu dừng ở chợ Hôm, dăm bà xuống bán cho người tranh thủ đi chợ sớm. Tàu đỗ bến Đinh Tiên Hoàng, lại dăm bà xuống gánh như chạy đưa rau đặt, còn bao nhiêu mới gánh ra chợ Hàng Bè. Đến chợ Đồng Xuân thì xuống cả, gánh thốc vào chợ.

Rau muống rẻ hơn các loại rau quả khác, dễ ăn, không chán, vì thế mùa hè dân Hà Nội ăn rau muống nhiều hơn các loại rau khác. Bây giờ rau muống ruộng không còn, rau muống bè cũng không vì ruộng và hồ ao xưa đã thành phố. Chỗ nào còn hồ ao thì ô nhiễm, rau không sống nổi, mất luôn lớp người tần tảo một thời… 

Tin đọc nhiều