Chợ trong phố

ANTD.VN - Hà Nội có một thời gian dài, chính danh được gọi là Kẻ Chợ. Đám người phương Tây, lần đầu tiên tới đất Việt, thích cái chữ này lắm. Những biến âm của nó, được thấy nhan nhản trong các tư liệu lịch sử thời kỳ đầu thực dân “cachao, catchou, kacho, kichou…”. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng từng viết: “Cho đến thế kỷ 16, chỉ có Thăng Long mới được gọi là Kẻ Chợ, còn tất cả các vùng miền khác gọi là Kẻ Quê”. 

Chợ trong phố ảnh 1

Chợ trong phố ảnh 2Chợ Đồng Xuân xưa và nay

Ngày xưa, cũng chưa hẳn xưa lắm, chợ thường họp ở cửa ô, cửa thành hay bến sông. Ngày nay, những “bãi bể” ồn ào nhếch nhác ấy theo thăng trầm thời gian đã thành những phố “nương dâu” nhang nhác văn minh. Có phải thế chăng mà một đặc điểm dễ thấy của chợ ở Hà Nội là luôn chìm nổi cùng với phố. Hình như từ đó mà có chữ “chợ búa”. 

Theo học giả An Chi thì “Búa thực ra là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ có âm Hán Việt hiện đại là Phố, có nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Ở Hà Tĩnh người ta vẫn gọi những chợ nhỏ là Búa”. Nếu đúng là vậy thì lịch sử của phố cổ Thăng Long cũng chính là lịch sử của những cái chợ. Không phải ngẫu nhiên mà trong tính cách của từng thị dân Hà thành, kể cả những người kinh lịch dày dặn chữ nghĩa, cũng luôn đầm đậm một chất “chợ búa”.

Thực ra điều này cũng đâu phải ngẫu nhiên, bởi đơn giản nó đã được thời gian che chở. Theo sứ giả người Tàu là Trần Phu ghi trong “An Nam tức sự” thì ngay từ đời Trần, cả thành Thăng Long đã là một chợ lớn. “Cứ 2 ngày họp một phiên, hàng hóa trăm thứ bày la liệt. Hễ cách 5 dặm thì dựng một ngôi nhà 3 gian, bốn phía đặt chõng để làm nơi họp chợ”. Những thế kỷ tiếp sau, nhất là ở các giai đoạn chế độ phong kiến thịnh trị, số lượng chợ luôn bạt ngàn tăng. Vào cuối thế kỷ 18, cảnh họp chợ Bạch Mã (tên gọi khác của chợ Cửa Đông, khoảng phố Hàng Buồm ngày nay) được coi là một trong “bát đại cảnh sinh hoạt”, Phạm Đình Hổ có ghi lại ở “Vũ trung tùy bút”. “Là một chợ buôn bán rất huyên náo. Những quân trộm cắp hay thừa cơ cướp giật, có khi thò tay vào túi người ta lấy hết cả”. 

Như vậy có thể thấy, việc móc túi ở các chợ trong phố đã có hẳn một chiều dài lịch sử, nó sắc sảo tạo ra một câu thành ngữ khét tiếng “nhanh như ăn cắp chợ Đồng Xuân”. Nạn nhân hầu hết là người ngoại tỉnh, cho dù thuộc lòng cái câu thành ngữ kia. Tay trái giữ túi trên, tay phải bịt túi dưới, nhưng chỉ cần hơi lơ đãng lập tức sẽ bị “thó”. Mà kẻ cắp chợ Đồng Xuân thì tài hoa thật, đủ ngón đủ nghề đủ loại. Trong đám đấy, chiếm số lượng không ít là phụ nữ. Hoặc cao ráo chân dài như mấy em người mẫu, hoặc lầm lỳ tinh quái vô cảm như Tám Bính ở mấy chương cuối của kiệt tác “Bỉ Vỏ”. Khi bị bắt phải lăn tay, hầu như các em đều có đủ hoa tay ở mười ngón. Xuất xứ đa phần đều đáng thương, đại loại hoàn cảnh hao hao như chị Bính hồi chưa lấy Năm Sài Gòn.

Ở Hà Nội vài mươi năm lại đây, ngoài lừng lẫy cỡ như Đồng Xuân-Bắc Qua hay kém hơn một tý, chợ Hôm-Đức Viên thì còn vô số những chợ cóc, chợ tạm, chợ đuổi… (người ở Hà Nội ít dùng chữ chợ dù). Và tuy chẳng muốn, những chợ trong phố luôn lừng lững làm ra một kiểu văn hóa rất riêng biệt. Đương nhiên, chủ nhân của văn hóa chợ phải là những người mua bán ở đấy, đặc biệt là những người ngồi bán. Tất nhiên, phần lớn đều là các bà các cô mà phong độ đặc trưng thường tập trung ở những thiếu phụ tuổi khoảng từ băm nhăm đến sáu nhăm. Ngày xửa xưa, họ đã được những nhà văn tầm cỡ Thạch Lam, Vũ Bằng miêu tả rồi. Sắc sảo, tần tảo, nhu hoạt, thương chồng chiều con. Ngày nay đại loại họ vẫn thế thôi, bởi họ là đời thứ hai đời thứ ba. Thậm chí hiếm hoi như bên ngoại của kẻ viết bài này, nối nhau bốn đời chuyên ngồi chợ Đồng Xuân. Thật may mắn được là đứa con trai sinh ra từ một gia đình như thế.

Chợ trong phố của Hà Nội không hẳn chỉ là thế giới riêng “của hai đàn bà và một con vịt”, nó còn có nhiều đàn ông ngồi bán. Sau hồi bao cấp, đàn ông thường ngồi ở những loại chợ “mới” như chợ Giời hay chợ xe đạp xe máy, phần lớn có vẻ ngoài phóng khoáng ngầu ngầu anh chị. Hỗn danh “con phe chợ Giời” khét tiếng chẳng kém gì “kẻ cắp chợ Đồng Xuân”. Bọn họ xuất xứ khá tạp. Có thể là đi bộ đội nửa chừng về. Có thể là vỡ nợ xuất khẩu lao động về. Cũng có thể hết hạn từ một trại nào đấy. Lấy đâu ra trong trắng sinh viên, ngơ ngác cán bộ hay bơ vơ thi sĩ mưu sinh. Chính vì ồn tạp như thế nên không khí của những chợ trong phố của dạo ấy kha khá giống văn đàn ở ta như lời một nhà thơ cám cảnh. “Những tưởng đầu đường thương xó chợ. Ai ngờ xó chợ cũng tương nhau”. Có điều, ngược với tính cách “hơi bị giang hồ”, bọn họ thường yêu chung thủy, nhất là những cặp vợ chồng cùng đứng bán chung một mặt hàng.

Chợ trong phố bây giờ đã mất nhiều, có thể do ai đấy đã hiểu nhầm hai khái niệm “văn hóa” và “văn minh”. Ví dụ dễ thấy nhất là khi chợ Hàng Da hay Cửa Nam lên đời thành siêu thị, cả hai đều đang lay lắt ngắc ngoải. Văn minh chỉ là chuyện “cần”, văn hóa mới là chuyện “sinh tử”.

Tin đọc nhiều