"Giải cứu" vải thiều, dưa hấu... bao giờ chấm dứt?

ANTD.VN - Theo các chuyên gia, với những loại nông sản chỉ có một mùa, thu hoạch trong thời gian ngắn như vải thiều, cần phải có biện pháp sơ chế hoặc chế biến để tránh phải "giải cứu" và thêm giá trị gia tăng. 

Ngưng "giải cứu" nông sản ế thừa, đầu tư sâu cho chế biến sau thu hoạch

Ngày 5-6, Diễn đàn kinh tế Việt Nam, chuyên đề nông nghiệp đã diễn ra tại Hà Nội do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân chủ trì tổ chức. 

Ngưng "giải cứu" nông sản

Điều phối phiên thảo luận tại diễn đàn, ông Trương Gia Bình- Trưởng Ban điều hành của diễn đàn đặt câu hỏi: "Nếu được đề nghị với Thủ tướng một đề xuất về phát triển nông nghiệp Việt Nam thời gian tới, các vị sẽ nói gì"?

Trả lời câu hỏi này, ông Nguyễn Quốc Toản - Quyền Cục trưởng Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) nêu 2 đề xuất. 

Thứ nhất, ở khâu chế biến, theo ông Nguyễn Quốc Toản, nếu xuất thô thì giá trị gia tăng còn thấp và sẽ thấp nữa. Do đó, đơn vị này đã đề xuất kế hoạch Diễn đàn chế biến quốc tế tại Việt Nam trong cuối năm nay. Đây là cơ hội cho phép các doanh nghiệp, cộng đồng quốc tế tham gia sâu hơn vào thị trường chế biến nông sản Việt Nam.

"Riêng rau quả như dưa dấu, vải thiều là những sản phẩm chu kỳ ngắn nên cần khâu chế biến cấp đông"- ông Nguyễn Quốc Toản nhấn mạnh.

Thứ hai, về thị trường, căn cốt là chất lượng sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn thị trường. "Một quả chôm chôm mất 9 năm đàm phán mới có thể xuất khẩu đã cho chúng ta thấy các về đề cần tháo gỡ"- lãnh đạo Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản nói.  

Ngoài ra, Việt Nam cần đầu tư hạ tầng thương mại. Hiện nay, chúng ta có hơn 8.000 chợ gồm chợ đầu mối, chợ loại II, siêu thị nhưng hành vi tiêu dùng của người dân là "tiện đâu mua đó" chưa phân loại.

Theo ông Trần Thanh Hải- Phó chủ tịch điều hành cấp cao Central Group (Thái Lan), Việt Nam có nhiều lợi thế, trong đó tiềm năng tại thị trường nội địa rất lớn khi có gần 100 triệu dân.

"So với thị trường Thái Lan, Việt Nam có những sản phẩm khó cạnh tranh song lại có lợi thế về một số loại quả như vải thiều. Chúng tôi đã khảo sát thì khoảng 90% người được hỏi cho rằng vải thiều Việt Nam ngon hơn vải Thái, ngoài ra còn có thanh long. Tuy nhiên, Việt Nam chưa cải tiến được khâu sau thu hoạch"- ông Trần Thanh Hải đánh giá.

Theo vị này, Việt Nam cần chú trọng quy trình quản lý chất lượng và tốt nhất để tự người nông dân tự làm. Khi họ hiểu được điều đó là cần thiết họ sẽ thay đổi phương thức sản xuất.

Đồng quan điểm này, bà Vũ Kim Hạnh- Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam Chất lượng cao thẳng thắn nói: "Chúng ta nên ngưng "giải cứu", mà cần có giải pháp đi sâu vào chế biến. Vải thiều có một mùa thì cần tìm cách để chế biến vải thiều để quả vải "không chỉ có một mùa" nữa. Muốn vẫn, cần nghiên cứu thị trường và nghiên cứu sản phẩm".

Khắc phục yếu kém của ngành nông nghiệp

Phát biểu khai mạc diễn đàn, ông Mai Tiến Dũng- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho hay, thời gian qua, với sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp, chúng ta đã có từ 3.300 đến 3.700 doanh nghiệp, 33.000 hộ trang trại, hàng nghìn hợp tác xã lớn.

Trong 4 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp tăng 11,9% so với cùng kỳ 2017, trong đó giá trị xuất khẩu nông sản đạt 6,5 tỷ USD, giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 2,4 tỷ USD... Thặng dư ngành nông nghiệp dự kiến vượt 9 tỷ USD trong năm nay.

Tuy nhiên, theo ông Mai Tiến Dũng, trong ngành nông nghiệp, nếu chúng ta chỉ sản xuất ra nhưng không chế biến thì cũng không thể tiêu thụ tốt, đặc biệt là với những bất cập trong quản lý vật tư đầu vào, yếu tố thị trường, chưa tổ chức được thị trường trong nước.

Điểm yếu tiếp theo của nông nghiệp Việt Nam là về tính liên kết sản phẩm của các làng xã, và địa phương. "Chúng ta cần nhiều thời gian để xử lý vấn đề này"- Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh. 

Từ kinh nghiệm thực tiễn và trong tương quan so sánh với một quốc gia có thế mạnh về nông nghiệp khác là Thái Lan, ông Trần Thanh Hải cho rằng, Việt Nam cần xây dựng và phát triển mô hình đầu tư canh tác quy mô lớn. Hiện nay, sản xuất còn nhỏ lẻ, làm theo quy mô hộ gia đình, diện tích canh tác còn giới hạn, các cánh đồng mẫu lớn chưa phổ biến, chưa tận dung được chi phí đầu tư thấp, dẫn đến giá thành sản phẩm cao.

"Ở các nước phát triển, chi phí đầu tư vào cơ sở vật chất, khấu hao trên từng sản phẩm giảm rất nhiều, nhà đầu tư có nhiều cơ hội đa dạng hoá sản phẩm, phát triển theo hướng chuyên nghiệp hoá. Ở Thái Lan, 500 con gà trở xuống là chăn nuôi nhỏ lẻ theo hộ gia đình, ở Việt Nam 90% như vậy, kém Thái Lan 10 lần"- ông Trần Thanh Hải khẳng định.

Cũng dẫn ra câu chuyện ở Thái Lan, đại diện Central Group cho biết hơn 70% hộ có sức nuôi từ 5.000 con gà ở trên. Trong khi đó, ở Việt Nam có 8 triệu điểm chăn nuôi, nhưng quy mô từ 100 đến 1.000 con chỉ chiếm 3%, trên 1.000 con chỉ 0,2%. Quy mô và năng suất hiệu quả các nông trại ở Thái Lan hơn hẳn Việt Nam, các sản phẩm dễ dàng cạnh tranh trên trường quốc tế.

Để tăng tính cạnh tranh và giá trị cho sản phẩm, Việt Nam cần ứng dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác, tránh phụ thuộc quá nhiều vào thời tiết, thị trường. Đồng thời, cần xây dựng và quản lý chất lượng thương hiệu cho nông sản.